Một cuộc khảo sát quốc tế năm 2010 cho biết, học sinh trung học Thượng Hải đã đánh bại học sinh Mỹ cũng như nhiều nước trên thế giới ở môn toán, khoa học và đọc. Cụ thể, đó là cuộc kiểm tra PISA (Program for International Student Assessment) dành cho học sinh 15 tuổi do tổ chức Phát triển hợp tác kinh tế (OECD) tổ chức. Với điểm trung bình là 500 thì trong cuộc thi toán, học sinh Thượng Hải đạt 600 điểm (Singapore 562, Đức 513 và Mỹ 487); ở môn đọc, học sinh Thượng Hải đạt 556, Hàn Quốc 539 và Mỹ 500 (thứ 17); ở môn khoa học, học sinh Thượng Hải đạt 575, so với hạng 23 là Mỹ chỉ đạt 502…
Nhiều người tin rằng đó là bằng chứng cho thấy tính “ưu việt nổi trội” của giáo dục Trung Quốc, nơi có hơn 260 triệu học sinh, sinh viên và khoảng 15 triệu giáo viên, với tỉ lệ xóa mù chữ đạt 92% so với 67% năm 1980 (The Atlantic 25-6-2012).
Một nền giáo dục không dành cho tất cả
Trong báo cáo của tổ chức Nesta (Anh), dẫn từ The Guardian (11.10.2013), người ta dự báo Trung Quốc qua mặt Mỹ về ngân sách đầu tư R&D trong 10 năm nữa. Chỉ số trích dẫn khoa học từ giới nghiên cứu Trung Quốc trên các chuyên san quốc tế đã tăng 9,5% vào năm 2011. Năm 2012, viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey dự báo đến năm 2030 Trung Quốc sẽ chiếm 30% tổng nhân công có trình độ đại học trên thế giới so với 5% của Mỹ (CNN 15.6.2012). Năm 2008, Mỹ có 14% sinh viên tốt nghiệp các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật, cơ khí và toán; trong khi Trung Quốc là 42%...
Tất cả cho thấy chính sách giáo dục của Trung Quốc dường như đúng hướng và chẳng có gì phải bàn cãi. Thành quả mà nó đạt được hoàn toàn xứng đáng với ngân sách khổng lồ 7,79 ngàn tỉ tệ (1,26 ngàn tỉ USD) trong 5 năm qua, như loan bố của Chính phủ Trung Quốc vào tháng 3-2013 (BusinessWeek 4.4.2013).
Để thấy sức nóng giáo dục Trung Quốc, không ví dụ nào cụ thể bằng kỳ thi đại học hàng năm. Trung bình 9 – 10 triệu thí sinh tham gia mỗi năm, “cao khảo” là cánh cửa hẹp mà gần như mọi học sinh trung học phải bước qua. Sau 12 năm phổ thông, “cao khảo” là vạch đích quan trọng, một chuẩn mực được thiết kế để đánh giá hàm lượng chất xám thế hệ tương lai, bất luận rằng mùa “cao khảo” là một ác mộng (tại Tứ Xuyên, học sinh phải học trong bệnh viện, với ống thở oxy, nhằm giúp tập trung hơn; học sinh nữ tại nhiều thành phố thậm chí uống thuốc ngừa thai để “an toàn” trong mùa thi; và tại một lò luyện “gà chọi” được xem là lớn nhất Trung Quốc, trường Mao Thảo Hán tại An Huy, học sinh phải học 17 tiếng mỗi ngày…).
Vào mùa “cao khảo”... Nguồn: Global Times
Tuy nhiên, việc đánh giá hiệu quả nền giáo dục Trung Quốc không đơn giản chỉ căn cứ vào sự so sánh mức độ dùi mài kinh sử, cũng như so sánh bảng điểm cuộc thi PISA mà đối tượng học sinh Trung Quốc tham gia hầu hết đều xuất thân từ Thượng Hải chứ không phải bất cứ tỉnh thành nghèo nào ở nước này. Chỉ riêng điều đó cũng cho thấy giáo dục Trung Quốc không được phân bổ đồng đều, ngang bằng và mọi đối tượng đều có thể thụ hưởng. Trong thực tế, “cao khảo” được thiết kế như một vách đá sừng sững làm nhụt chí học sinh vùng xa. Theo Rachel Lu trong bài viết trên Foreign Policy (11.10.2013), điểm “sàn” của các đại học tên tuổi ở những thành phố lớn như Bắc Kinh hoặc Thượng Hải, dành cho thí sinh có hộ khẩu địa phương của họ, thường thấp hơn so với thí sinh hộ khẩu “trái tuyến” từ các tỉnh thành xa!
BusinessWeek (4.4.2013), dẫn lại từ thống kê của bộ Giáo dục Trung Quốc, cho biết chi phí hàng năm cho một học sinh trung học tại Bắc Kinh năm 2010 lên đến 20.023 tệ, hơn sáu lần so với tỉnh nghèo Quý Châu. Tỉ lệ bỏ học tại vùng sâu vùng xa ngày càng tăng. Năm 1997, Trung Quốc có 630.000 trường tiểu học; năm 2011, còn 254.000. Dù trên nguyên tắc mọi học sinh đều có thể thụ hưởng giáo dục miễn phí từ tiểu học đến trung học cơ sở, phụ huynh tại các tỉnh thành vùng xa thường rất vất vả, nếu không nói là vô cùng khốn đốn, khi xoay sở “mua cái chữ” cho con em họ. Nghèo mạt không thể mơ đến việc nuôi con ăn học. Theo khảo sát của Dương Đông Bình, chuyên gia giáo dục thuộc viện Kỹ thuật Bắc Kinh và giám đốc viện Nghiên cứu giáo dục thế kỷ 21, phụ huynh miền quê phải chi trung bình 2.000 tệ/năm cho chi phí giáo dục, chưa kể nhiều khoản phí ngoài luồng chẳng hạn 300 tệ/tháng để con em được xếp ngồi các dãy bàn trên cùng. Cũng theo họ Dương, hiện có 900.000 em từ 6 - 8 tuổi ở các vùng quê nghỉ học mỗi năm…
Không bằng chứng nào rõ rệt về sự bất bình đẳng trong hệ thống giáo dục Trung Quốc bằng chính sách hộ khẩu. Ít nhất 20 triệu trẻ thuộc các gia đình nhập cư tại những thành phố lớn phải học trường tư, nơi học phí luôn đắt đỏ và chất lượng luôn phập phồng; rồi chúng lại buộc phải trở về nơi có đăng ký hộ khẩu vào mỗi mùa thi. Vấn đề hộ khẩu và những nghịch lý éo le đến mức quái đản của nó thật sự đã và tiếp tục tạo ra vô số bi kịch. Nó là một trong những rào cản lớn nhất trong việc xây dựng một nền giáo dục thật sự vững mạnh đối với Trung Quốc. Khắp Trung Quốc, như đánh giá OECD, đến năm 2030, sẽ có thêm 300 triệu người rời vùng quê lên đô thị để cùng sống với 600 triệu người nhập cư hiện tại, những người mà dân đô thị thường gọi một cách khinh thị là “bọn châu chấu”! Nếu chính sách hộ khẩu không thay đổi, giáo dục và tương lai Trung Quốc sẽ tiếp tục còn bị ảnh hưởng…
Chuẩn chất lượng đáng ngờ!
Chất lượng giáo dục Trung Quốc rõ ràng không thể đánh giá một cách tổng quát và xác đáng dựa vào vài cuộc thi trung học cấp quốc tế.
Trong bài viết trên South China Morning Post ngày 10.10.2013, giáo sư Tào Thông (đại học Nottingham) đã dẫn lời giáo sư Trịnh Dã Phu, nhà xã hội học đại học Thanh Hoa, rằng “cho dù bạn học ở đâu, Harvard, Yale, Oxford hay Cambridge, bạn cũng không có cơ hội giành Nobel khoa học nếu bạn đã trải qua 12 năm đầu đời tại một trường Trung Quốc. Cá tính, óc tò mò, trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo của bạn đơn giản sẽ bị phá hủy bởi hệ thống giáo dục Trung Quốc”. Đó là một hệ thống “trồng người” với truyền thống Khổng giáo được hiện đại hóa bằng mô hình mang đậm màu sắc chính trị Trung Quốc, nơi học sinh không được phép tranh luận với thầy, nơi những gì thầy nói luôn được xem là “lời vàng thước ngọc”, hay nói cách khác, nơi mà tinh thần phản biện không được đề cao.
Cũng trong bài viết trên, giáo sư Tào đã nhắc đến nhận xét của giáo sư Dương Chấn Trữ rằng ông hẳn không thể đoạt Nobel nếu trở về Trung Quốc vào thập niên 50! Việc đoạt được Nobel khoa học, một giải chỉ dành cho những nghiên cứu có kết quả thực tế được kiểm chứng qua thời gian, rõ ràng khác xa với việc giành được điểm cao trong các cuộc thi khoa học hay Olympic toán dành cho học sinh trung học, nơi chỉ nhấn mạnh đến lý thuyết và “kỹ năng” thuộc bài.
Ngày 10.5.2013, khi tường trình trước uỷ ban Xem xét an ninh - kinh tế Mỹ - Trung tại Hạ viện Mỹ, giáo sư Denis Simon thuộc đại học công Arizona kể lại: thập niên 80 thế kỷ trước, khi giới chuyên gia khoa học Trung Quốc được yêu cầu phải giải thích tại sao Trung Quốc tụt hậu so với Nhật và phương Tây, hầu hết ý kiến trả lời đều tập trung vào ba vấn đề: thiếu tiền; thiếu nhân tài; thiếu trang thiết bị. Bây giờ, tiền có dư, nhân tài có thừa và cơ sở vật chất cũng tốt nhưng tại sao khoa học Trung Quốc vẫn cứ rị mọ? Vấn đề rõ ràng nằm sâu xa ở cái gốc của giáo dục, ở định hướng giáo dục, ở phương pháp giáo dục, chứ không phải ở những con số chỉ tiêu dành để đánh bóng các bản báo cáo.
Một bài viết của The Economic Observer (báo Trung Quốc bằng tiếng Anh) ngày 1.4.2013, dẫn từ thống kê OECD năm 2010, cho biết: 75% sinh viên của 2.000 đại học Trung Quốc đều cố gắng hoàn thành chương trình để có thể lấy bằng tốt nghiệp – một tỉ lệ rất khích lệ so với Mỹ, nơi có đến 54% sinh viên bỏ học giữa chừng. Năm 2011, viện Mycos (Bắc Kinh) khảo sát lại và cho kết quả chỉ 3% sinh viên Trung Quốc là bỏ học ngang. Trong khi đó, bộ Giáo dục Trung Quốc nói rằng con số thật chỉ là 0,75%. Bất luận là tỉ lệ bao nhiêu, cũng có thể đặt câu hỏi: vì sao sinh viên Trung Quốc không dám nghỉ học? Tại Mỹ, một sinh viên bỏ học có thể trở thành Bill Gates, Steve Jobs hay Michael Dell; nhưng với Trung Quốc, thói quen tôn trọng bằng cấp, cùng với môi trường xã hội vốn không tạo cơ hội cho sự thăng hoa phát triển cá nhân, đã buộc chặt sinh viên vào ghế nhà trường. Họ không dám tự lao vào biển lớn. Họ không có thói quen làm điều đó. Và sóng biển cũng sẽ dập chết nếu họ không có cái phao bằng đại học!
Trong thực tế, việc sở hữu mảnh bằng đại học chưa hẳn đồng nghĩa với sự đổi đời. Cuộc khảo sát mới đây của viện Kinh tế lao động và dân số thuộc viện Khoa học xã hội Trung Quốc cho biết, thu nhập bình quân hàng tháng của sinh viên tốt nghiệp đại học Trung Quốc chỉ nhỉnh hơn lao động phổ thông nhập cư khoảng 50 USD, tức 1.500 tệ (246 USD) so với 1.200 tệ (197 USD)! Cũng theo nguồn The Economic Observer, tỉ lệ cử nhân (dưới 25 tuổi) bị thất nghiệp tại Trung Quốc lên đến 16,4% - so với 8,3% tại Mỹ. Chi tiết này, một lần nữa, cho thấy những dự báo thuần túy “đếm số” thường không có giá trị thật sự, đặc biệt khi đề cập đến giáo dục, nơi mà chất lượng mới là yếu tố tiên quyết.
Mạnh Kim