Đấy là tôi nghe người ta nói thế thôi. Ngay cả cái tên chữ Nhật Đức kia chắc cũng chỉ dùng trong sách vở. Ở quê tôi người ta gọi đơn giản là sông Thương. Ngay cả tôi, thú thật cũng không biết đến cái tên nào ngoài tên ấy cho đến khi đi học và đọc sách.
Trong sách người ta viết sông bắt đầu từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thủy, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy qua 3 tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương với tổng chiều dài lên tới 157km. Đoạn chảy qua xã tôi chắc dài chừng 3km, đi qua các làng Bến, Sấu, Lãn Tranh, Liên Bộ. Nếu tính riêng đoạn chảy qua địa phận làng tôi (làng Sấu) thì khoảng 500 - 700m. Đấy là một khoảng cách không dài nhưng sông đã chảy qua những địa điểm quan trọng nhất của xã: chợ, UBND xã (cũ), trạm y tế (cũ), cống Chuông, bến đò Than, bến đò Mom, Trạm Bơm.
Về cơ bản, mọi sinh hoạt chung của toàn xã đều diễn ra xoay quanh đoạn sông này trước khi UBND và trạm y tế dời đến địa điểm mới. Cho dẫu thế, địa điểm mới của chúng cũng chỉ cách sông chưa đầy một cây số. Từ nhà tôi ra sông, tính đường chim bay chắc cũng chỉ 500 - 700m. Nếu đi theo đường làng ra sông cũng chưa đến một cây số. Đứng ở hiên nhà tôi có thể nhìn rõ cả rặng tre bên kia sông và những con thuyền lớn đang đi trên mặt nước.
Người ta thường nói sông Thương nước chảy đôi dòng trong đục. Hình ảnh ấy đã đi vào cả ca dao của người xưa lẫn văn, thơ, nhạc, họa của người hiện đại. Câu ca dao “Sông Thương nước chảy đôi dòng/ Bên trong bên đục em trông bên nào?” được rất nhiều người biết tới. Những nhạc sĩ nổi tiếng như Đặng Thế Phong, Phạm Duy cũng đều viết về sông Thương. Nhạc và lời của Đặng Thế Phong thật buồn thương, tha thiết:
Lướt theo chiều gió, một con thuyền,
Theo trăng trong, trôi trên sông Thương, nước chảy đôi dòng, biết đâu bờ bến
Thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên con sông Thương, nào ai biết nông sâu?
Các nhà thơ: Lê Thánh Tông, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Lưu Quang Vũ… cũng đều viết về sông Thương hoặc coi sông Thương là cội nguồn cảm hứng.

Sông Thương bây giờ không còn đẹp như thuở nhạc sĩ Đặng Thế Phong viết Con thuyền không bến năm 1941. Ảnh: NQĐ
Có lẽ có hai lý do để các nhà thơ, nghệ sĩ rung động trước sông Thương. Một là nơi đây Lạng Sơn - Bắc Giang là đất phên giậu của bao triều đại, quân xâm lược Trung Quốc muốn tiến xuống Bắc Ninh hay vào Thăng Long đều phải qua đây. Mảnh đất này là mồ chôn quân xâm lược. Trong suốt hơn 2.000 năm qua bao nhiêu trận đánh chống quân xâm lược đã diễn ra trên mảnh đất này? Bao nhiêu người đã chết và bị thương trong những trận chiến đó? Di tích thành Xương Giang vẫn còn kia. Chẳng thế mà người ta bảo rằng người dân gọi nôm na con sông này là sông Thương vì nơi đây diễn ra những cuộc chia tay tiễn những chàng trai lên ải Bắc. Đến giờ cũng vẫn còn địa danh bến Chia Ly (hay bị đọc là Chi Ly).
Hai là sông Thương mang trong mình vẻ đẹp riêng. Người ta bảo sông Thương trong đục đôi dòng nhưng từ nhỏ, với nghìn lần ra sông, tôi chỉ thấy đoạn sông chảy qua làng tôi một màu xanh biếc. Nước xanh lắm vì hai bên bờ sông, cả bên này của huyện Tân Yên lẫn bên kia của huyện Lạng Giang đều là rặng tre dày rủ bóng xuống sông. Nước sông xanh nhưng là xanh trong, không phải xanh màu nõn chuối đầy tảo như ở một số hồ nước thường thấy trong đô thị. Khi nhảy xuống sông tắm và lặn tôi có thể nhìn rõ cá tôm bơi dưới sông cùng những cây tóc tiên lòa xòa theo sóng. Sông sạch đến độ chúng tôi không chỉ tắm mà còn uống cả nước sông. Đi chăn trâu, đi câu lúc khát vục tay hoặc lấy mũ múc lên uống thẳng. Suốt tuổi thơ, chúng tôi đã uống bao lần như thế mà chưa từng thấy đứa nào kêu đau bụng.
Nước sông sạch nên nhiều người cũng ra sông gánh nước về dùng. Buổi trưa phụ nữ mang quần áo, chăn chiếu ra sông giặt. Giặt chăn hay chiếu phải mang ra sông trải trên mặt nước rồi dùng chày hay đòn gánh đập mới đã. Vào những trưa hè, bến sông kín người. Những ngày giáp Tết, người làng cũng mang lá đã luộc ra sông rửa. Ở làng tôi người ta không gói bánh chưng bằng lá dong sống còn tươi như ở nơi khác. Họ sẽ luộc lá dong, lá ỏng (nơi khác gọi là là chít) lên, đem ra bờ giếng hoặc sông Thương rửa sạch, lau khô rồi mới gói. Họ cũng không gói nhiều bánh chưng vuông mà chỉ gói vài cái để cúng, chủ yếu họ gói bánh chưng dài mà nhiều nơi hay gọi là bánh tét.
Sông Thương là nơi chúng tôi thường xuyên ra chơi. Không câu cá thì bơi. Không tắm, không bơi thì xem những con thuyền trên sông. Thuyền có rất nhiều loại: thuyền chở cát, ca nô chở dầu, sà lan chở than, gỗ, thuyền đánh cá… Chúng tôi rất thích xem người ta đạp cát trên sông. Thời đó không có máy móc, tất cả đều làm bằng tay. Những con thuyền lấy cát lớn hơn thuyền đánh cá rất nhiều lần, có lẽ nó chỉ nhỏ hơn những chiếc sà lan chở gỗ một chút.
Những con thuyền này thường không chạy máy mà chạy bằng buồm. Buồm màu trắng hoặc màu nâu cực lớn. Khi lặng gió, những thanh niên trên thuyền sẽ phải buộc dây vào thuyền rồi vừa đi dọc bờ sông vừa kéo thuyền lướt băng băng. Ba bốn người dây thừng lớn vắt qua vai nghiêng người về phía trước ráng sức kéo thuyền đi. Lũ trẻ chúng tôi đã bao lần chạy theo những thanh niên cởi trần, quần đùi da rám nắng suốt một chặng đường dài dọc triền sông.
Ở trên thuyền họ dùng một cái gàu lớn bằng sắt gắn vào một đầu cây sào để xúc cát dưới sông. Mọi thao tác đều cực nhọc và chậm chạp. Gàu thả xuống sông sẽ được kéo bằng dây tời đạp bằng chân cho cắm ngập vào ổ cát dưới lòng sông, sau đó kéo lên đổ vào thuyền. Họ vừa làm vừa hô hai ba, vừa hát. Lúc chuyển cát lên bờ họ dùng thúng đội cát trên đầu... Bây giờ, bãi cát ở đoạn sông chỗ cửa nhà tôi nhìn thẳng ra rất lớn, hai ba cái cần cẩu lừng lững chĩa lên trời, xe cộ đi lại chở cát tấp nập nhưng việc khai thác cát trên đoạn sông xã tôi đã bị cấm.
Những thuyền đánh cá, thả rọ tôm thì nhỏ hơn. Nó có thể là thuyền nan ngồi một người, cũng có thể là thuyền có mái khum. Nếu thuyền có mái khum, nhiều khả năng là người ta sống luôn trên đó, coi thuyền là nhà. Có thể đấy là một gia đình nho nhỏ. Cũng đôi khi có những chiếc thuyền từ đâu đến làm cho bọn trẻ chúng tôi sửng sốt. Đấy là những thuyền lặn “trai vạng”, “trai cóc”. Họ lặn xuống sông mò bắt những con trai lớn vỏ xù xì, xà cừ lấp lánh mà không cần bất kỳ một thiết bị bảo hộ hay hỗ trợ nào, chỉ có hai bàn tay trần. Những con trai này quý ở bộ vỏ. Có lẽ người ta lấy vỏ để khảm vào các đồ gỗ cao cấp như giường, tủ, bàn, ghế… Lũ trẻ chúng tôi say mê xem họ lặn suốt buổi.

Khắp sông Thương phủ kín một loại bèo nhỏ màu xanh lục, năm 2023. Đấy là một sự dị thường. Ảnh: Nguyễn Quốc Vương
Ở quê tôi, lặn xuống sâu như thế chỉ có mấy ông đánh cá mìn. Lúc bấy giờ sông còn nhiều cá và đánh cá bằng chất nổ chưa bị cấm gắt gao. Những người đánh cá bằng mìn đa số đều là người Lãn Tranh. Người hay đánh mìn ở quãng sông thuộc làng tôi là ông Phấn và ông Dần. Ông Phấn bị hỏng một mắt và cụt tay phải. Đấy là hậu quả của việc quả mìn ông tự chế nổ luôn trên tay. Ông Phấn bị tật vì mìn nhưng ông vẫn cứ ném mìn xuống sông giết cá như thường. Chỗ bến Men, nơi có ghềnh đá ăn lan ra mặt sông và gần chỗ bãi thả trâu của chúng tôi là nơi đánh mìn ưa thích của ông. Để đánh cá ở đây, tối hôm trước hoặc sáng sớm ông mang thính đến ném xuống chỗ bến Gành. Cá đủ loại kéo đến ăn. Tầm 7 - 8 giờ sáng ông Phấn đến. Mồm ông ngậm điếu thuốc, cánh tay cụt đến khuỷu thò ra tay áo rung rung. Quan sát một hồi, ông móc túi lấy ra quả mìn, kẹp vào nách rồi đưa bàn tay còn lành kiểm tra. Đứng từ xa bọn trẻ chúng tôi không thể nào nhìn rõ quả mìn, chỉ thấy nó có hình trụ tròn màu xám. Sau đó ông dùng tay trái cầm quả mìn, bình thản châm ngòi vào điếu thuốc ngậm trên môi rồi ném xuống nước. “Uỳnh!” một tiếng nổ trầm đục nặng nề vang động khúc sông, đập vào núi và vọng lại tai chúng tôi. Một cột nước trắng vọt lên trời cao tầm mươi mét. Nước rụng rào rào. Dưới sông bong bóng nổi lên ào ào cùng cơ man là cá. Ông Phấn cởi áo nhảy xuống dùng vợt và tay vớt cá lia lịa vứt lên bờ. Bọn trẻ chúng tôi xô lại xem. Bao nhiêu là cá: cá vền, cá chép, cá chày, cá măng… Tất cả đều đã chết.
Tôi không thích những người đánh mìn vì tôi biết làm như thế là giết sạch tất cả những loài sinh vật sống dưới sông, cả cá lớn, cá nhỏ lẫn rong rêu, ốc hến…
Bố tôi từng là bộ đội thì bảo tai nạn như ông Phấn mà không chết là quá may mắn. Mẹ tôi thì không bao giờ mua cá đánh mìn. Mẹ giải thích cá đánh mìn là cá chết, khi rán, nấu sẽ bị nát ăn không ngon. Nhưng chắc ông Phấn, ông Dần vẫn bán được cá nên cứ đánh mìn suốt cho mãi tới khi xã cấm ngặt.
Đi lang thang qua nhiều vùng khắp đất nước, tôi thấy nhiều nơi người ta thường nuôi cá bè trên sông. Tuy nhiên ở làng tôi không có ai nuôi cá bè. Người làng cũng không ra sông đánh cá bằng lưới hay câu trên sông mà chỉ đánh cá ở cửa cống Chuông, nơi nước con ngòi đổ ra ào ạt. Vào đầu mùa mưa, cá từ sông ngược dòng nước vào ngòi nhiều khủng khiếp. Trên mặt nước cá mương nổi đầu thành từng đàn, đứng trên bờ nhìn thấy rõ. Lâu lâu lại có con cá lớn ngược dòng nước không thành bực mình nhảy vọt lên cao. Hôm nào đêm mưa to thì sáng ra ở đây đông như hội.
Sông với tôi yêu thương thân thiết vô cùng. Đi chăn trâu vào mùa hè ngày nào tôi cũng tắm. Chúng tôi hay tắm ở chỗ cống Chuông chảy ra. Cứ đứng trên mặt đê nhảy xuống dòng nước chảy để nó xối mình trôi tuột ra tận gốc gạo nhà ông Đức phía sông rồi lại lội vào bờ nhảy tiếp.
Vào mùa lũ, nước chảy cuồn cuộn từ thượng nguồn về kéo theo đủ thứ gỗ mục, lá cây, phù sa nên nước rất đục. Đục thế nhưng chúng tôi vẫn tắm. Chúng tôi bơi cả ra giữa sông để vớt củi, vớt hoa quả từ rừng trôi về. Người làng tôi, xã tôi mang thuyền ra vớt củi đen cả mặt sông. Sau khi nước lụt rút đi, những khu ruộng ở ngoài đê và bãi sông, triền sông được phủ bởi một lớp phù sa mịn như bánh đúc và cực mát. Đất ở đó rất tốt, trồng gì cũng xanh non.
Bây giờ, nước sông vừa cạn, vừa đục đi nhiều. Vào mùa lụt, nước vẫn dâng cao hơn bình thường nhưng không còn củi, gỗ trôi trên sông, cũng không còn chút phù sa nào nữa...
Hai bờ sông tre mọc dày, thi thoảng điểm một cây gạo, cây sung hoặc cây gáo. Ở bờ bên phía làng tôi, thi thoảng còn có một khoảng trống lộ ra chứ bên kia sông tre mọc dày như thành lũy, chỉ hở ra một khoảng chỗ bến đò. Nơi có nhiều cây gạo nhất là đoạn bờ sông giáp làng tôi và làng Bến gọi là làng Đồng. Nhà tôi có ruộng trồng lạc ở phía đó vì thế tôi thường đi qua đoạn bờ sông này khi đi trồng lạc, xới lạc và nhổ lạc với mẹ. Mùa xuân hoa gạo nở đỏ rực nhìn đẹp vô cùng. Chỗ cống Chuông chảy ra cũng có một cây gạo mà chúng tôi quen gọi là cây gạo ông Đức. Cây gạo khá lớn mọc sát mép nước. Mùa xuân cây bung hoa đỏ rực như lửa cháy.
Khi tôi tốt nghiệp đại học, những cây gạo này vẫn còn. Nhưng thật buồn, khi tôi đi du học trở về tất cả gần như biến mất. Đoạn chỗ làng Đồng cũng chỉ còn một hai cây. Gỗ gạo nấu thì không cháy, lại khói, làm ván thì rất thường, không hiểu sao người ta lại chặt đi những cây gạo ấy. Cây gạo bến Tuần ở xã Hợp Đức phía trên cách làng tôi chừng 4 - 5 cây số cũng bị sét đánh gãy ngọn. Vậy nên bây giờ nhắc đến hoa gạo sông Thương người ta thường chỉ biết đến cây gạo ở Lãng Sơn - Yên Dũng mà thôi. Những người đã từng biết đến vẻ đẹp của hoa gạo sông Thương như tôi tất nhiên là buồn và tiếc nhớ ngày xưa.

Kè đá dọc bờ sông Thương dài chừng 3km chảy qua làng Bến (ảnh), làng Sấu, làng Lãn Tranh và Liên Bộ. Ảnh: NQĐ
Bây giờ, người ta kè đá dọc bờ sông chảy qua làng Bến, làng Sấu, làng Lãn Tranh và Liên Bộ. Đá và bê tông làm cho đê rất vững chãi. Sẽ không có cảnh cả xã, cả làng nơm nớp lo đê vỡ mỗi đêm mưa lớn như trước. Nhưng sông bây giờ không còn đẹp như xưa. Tre ngày một ít đi. Những cây gạo nhỏ và thưa thớt. Nước sông đục lờ, một thứ màu chỉ nhìn qua đã biết là không nên tắm rửa. Không còn ai ra sông tắm nữa, có rửa tay chân hay nông cụ cũng là chẳng đặng đừng. Có lần về quê, tôi thấy sông phủ kín một loại bèo nhỏ màu xanh lục, điều từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng thấy. Đấy là một sự dị thường. Một số tờ báo đưa tin về hiện tượng này nhưng không tờ nào nêu rõ nguyên nhân.
Trên sông vẫn có thuyền qua lại nhưng không còn thuyền buồm, cũng chẳng thấy thuyền câu hay thuyền thả lưới. Những con thuyền chạy qua phần lớn là thuyền chở than, chở vật liệu xây dựng và xăng dầu. Vẻ đẹp nên thơ của con sông đang dần biến mất. Sông như đã bước qua tuổi trung niên. Bạn bè tôi ở nơi xa đến, nhất là những người sống ở nơi không có sông hoặc từ nhỏ tới lớn sống nơi thành thị khi thấy sông Thương và các cánh đồng ở xung quanh thường ồ lên khen đẹp!
Tôi biết đó không phải là lời khen xã giao, nó là cảm xúc thật. Nhưng họ đâu biết, sông Thương ngày xưa đẹp gấp mười, mà không, phải là gấp trăm lần hiện tại!
Nguyễn Quốc Vương