Tỉ lệ bệnh ở nam giới cao hơn
Ung thư tuyến mồ hôi được bác sĩ Hoa Kỳ Joseph Leonard Goldstein và các cộng sự của ông mô tả lần đầu tiên vào năm 1982. Các bướu thuộc phần phụ của da như bướu tuyến mồ hôi, nang lông và các tuyến bài tiết chất bã của da thường rất ít xảy ra.
Ung thư tuyến mồ hôi và ung thư các phần phụ khác của da lại càng hiếm gặp và thường là một thách thức trong chẩn đoán. Nhưng trong một nghiên cứu của Viện Ung thư Quốc gia Mỹ, tỉ lệ ung thư tuyến mồ hôi tăng 170% từ năm 1978, đây là sự gia tăng đột ngột từ những năm 1978 đến 2005 mà chưa xác định rõ nguyên nhân.
Nam giới thường mắc bệnh nhiều hơn nữ giới, suất độ chuẩn 5.1/1000000 ca ung thư hàng năm. Người da trắng không phải sắc tộc người Tây Ban Nha có suất độ cao hơn người bản xứ (5,7/1.000.000 so với 3,7/1.000.000), người Mỹ gốc Phi (3,5/1.000.000) và các sắc dân vùng Châu Á Thái Bình Dương (2,5/1.000.000). Suất độ này thay đổi và gia tăng theo tuổi, tăng 100 lần giữa những người trẻ 20 – 29 tuổi so với người trên 80 tuổi.
Tại Việt Nam hiện nay, ung thư tuyến mồ hôi vẫn là bệnh lạ, bệnh hiếm trong mắt phần lớn dân số. Trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2007, tại Bệnh viện Ung bướu TP.HCM đã lục lại được hồ sơ của bốn trường hợp mắc bệnh. Từ năm 2007 đến nay chưa có số liệu cụ thể của những bệnh nhân mới về căn bệnh hiếm này.
Những yếu tố có thể dẫn đến bệnh
Cho đến nay nguyên nhân do đâu dẫn đến ung thư tuyến mồ hôi vẫn còn nằm trong nghiên cứu của y văn thế giới. Tuy nhiên, một số yếu tố như bị phơi nhiễm bởi tia cực tím, suy giảm miễn dịch là các yếu tố liên quan đến bệnh. Bức xạ tia cực tím giữ vai trò trong cơ chế sinh bệnh, điều này được giải thích bởi tại sao tỉ lệ xảy ra lại thấp ở những người da sậm màu hơn.
Ngoài ra, người ta thấy các loại thuốc điều trị khớp và kháng viêm sử dụng dài ngày cũng giữ vai trò trong việc gia tăng tỉ lệ ung thư này.
Trên lâm sàng, vị trí các tổn thương của bệnh biểu hiện nhiều nhất là ở mặt (48,6%), ở các chi là 19%, ở vùng thân mình là 17,4%, da đầu và cổ chiếm 14%. Ung thư tuyến mồ hôi thường khó được chẩn đoán hay chẩn đoán không đúng nếu chỉ dựa vào lâm sàng, và chỉ chẩn đoán xác định được qua mẫu mô sinh thiết từ bướu hay hạch di căn.
Với bốn trường hợp đã được phát hiện từ năm 2002, cả bốn đều xuất hiện một cục cứng trong da, nằm ở vị trí cẳng chân, đùi phải hoặc đùi trái và vai cánh tay. Tổn thương trên lâm sàng là một khối bướu kích thước nhỏ dưới da, không đối xứng, giới hạn không rõ ràng, sượng cứng, xâm nhiễm ra da, bề mặt da sẫm màu hoặc có màu hồng.
Ban đầu khối bướu có thể nhỏ, không đáng quan tâm, nhưng càng về sau bướu lớn dần, xâm chiếm vào mô, xương, gây đau nhức dữ dội cho bệnh nhân, có khi họ phải dùng thuốc giảm đau liều mạnh nhất để xoá cơn.
Một đặc trưng nữa là loại ung thư này rất nhanh cho di căn đến hạch bạch huyết, do vậy ngoài tổn thương nguyên phát, các tổn thương hạch vùng nách, hạch cổ là những triệu chứng chính mà người bệnh tìm đến khám và điều trị.
Chẩn đoán cho bệnh nhân, bác sĩ sẽ dùng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, X-quang phổi sẽ giúp phát hiện những tổn thương di căn đến gan, phổi hay di căn xương. Đó là những vị trí thường bị di căn nhất. Phương pháp chọc hút tế bào từ mô bướu hay hạch, hoặc mổ lấy mẫu sinh thiết cũng mang lại kết quả mô học chắc chắn.
Tái phát cao sau phẫu thuật
Ung thư tuyến mồ hôi thường không nhạy với xạ trị, hóa trị cũng ít có vai trò trong điều trị loại ung thư này.Vì vậy, phẫu thuật là phương pháp điều trị được xem có hiệu quả hơn cả, nhất là khi bệnh còn khu trú tại chỗ, hoặc chưa có di căn.
Bệnh nhân cần phải được phẫu thuật cắt bỏ bướu nguyên phát, kèm theo là nạo vét sạch các hạch di căn. Với những sẹo để lại sau khi sinh thiết cần phải được cắt bỏ. Nạo vét hạch phòng ngừa được chỉ định cho những trường hợp bướu tái phát hay kết quả mô học thuộc loại biệt hóa kém.
Diễn tiến của bệnh là phá hủy cấu trúc tại chỗ dữ dội và khả năng tái phát cao, người ta thấy tỉ lệ tái phát sau cắt rộng tại chỗ từ 47-59%. Do vậy, cần phải có một chiến lược theo dõi chặt chẽ và đều đặn sau mổ nhằm phát hiện tái phát hoặc sự xuất hiện một ung thư da khác. Các yếu tố tiên lượng cũng rất khó xác định, một vài yếu tố liên quan như kích thước bướu, loại mô học, tình trạng di căn hạch hoặc di căn xa. Thời gian sống còn 5 năm là 99% khi bệnh còn ở giai đoạn khu trú, nhưng chỉ còn 43% khi bệnh đã có di căn xa đến các cơ quan khác trong cơ thể.
Phòng ngừa trên các yếu tố nguy cơ
Ung thư tuyến mồ hôi xuất phát từ những cấu trúc phần phụ của da, ban đầu là những nốt nhỏ, diễn tiến rất chậm trong thời gian dài rồi đột ngột gia tăng kích thước. Không có hình ảnh đặc trưng nào giúp xác định chẩn đoán, chỉ đến khi các khối u trên cơ thể bệnh nhân có hiện tượng chảy máu, tiết dịch thì triệu chứng mới rõ ràng.
Vì vậy, khi nhận thấy trên da xuất hiện những u nhỏ, hoặc có thay đổi bất thường nào đó, chúng ta nên đến khám tại các trung tâm chuyên khoa ung bướu uy tín, có chuyên môn cao.
Việc phòng ngừa cũng chỉ dựa trên chế độ sinh hoạt điều độ, rèn luyện sức khoẻ thường xuyên, hạn chế các thức uống có cồn.
Để tránh gây nên những viêm nhiễm cho da, khi ra đường, chúng ta nên bảo vệ cơ thể bằng khẩu trang, không mặc đồ quá hở, tránh tia bức xạ độc có cơ hội tiếp xúc với da, mặc quần áo sáng màu giúp giảm sự hấp thụ bức xạ, nên hạn chế đi dưới ánh nắng từ khoảng mười giờ sáng đến ba giờ chiều.
Trong ăn uống, chọn nhiều rau quả, vitamin, bổ sung đủ nước hàng ngày duy trì sức khoẻ, sức đề kháng cho làn da.
TS-BS. Bùi Chí Viết
(Trưởng khoa ngoại 2, Bệnh Viện Ung Bướu TP.HCM)