​​​​​​​Cảnh giác “sát thủ” lao màng não

 13:10 | Thứ sáu, 01/09/2023  0
Lao màng não khởi đầu có biểu hiện khá mơ hồ và trùng lắp với các bệnh viêm màng não khác hoặc các bệnh lý nhiễm khuẩn thông thường khác.

Hơn 1 năm tuổi,  bé M. phát triển bình thường như bao đứa trẻ khác. Tuy nhiên, một ngày nọ bé bị sốt cao, lơ mơ kèm theo những cơn động kinh. Khi chuyển từ Vũng Tàu đến bệnh viện Nhi đồng 1 (TP.HCM) bé đã hôn mê. Sau 6 ngày nằm viện với 2 lần chọc dịch não tủy bé được chẩn đoán là lao màng não và chuyển tiếp đến bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.

Ở đây, dù được điều trị tích cực bằng các loại thuốc đặc hiệu trong vòng 4 tháng bé vẫn không qua khỏi.

Diễn tiến ảm đạm trên là một minh họa khá điển hình và thường gặp về các ca lao màng não tại một số bệnh viện lớn trong thành phố hiện nay.

Dấu hiệu lao màng não ở người bệnh còn phụ thuộc vào thời gian mắc bệnh. Ảnh: TL


32-67% nguy cơ tử vong

Lao là bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn lao hay còn gọi là vi trùng Kock gây nên. Bệnh có thể gặp ở tất cả các bộ phận trong cơ thể, trong đó lao phổi là phổ biến nhất chiếm 80-85% và là nguồn lây chính cho người xung quanh. Lao ngoài phổi như lao hạch, lao xương, lao kê, phế quản phế viêm lao và lao thần kinh trung ương (gồm lao màng não, lao não và lao tủy sống) mà chủ yếu là lao màng não chiếm khoảng từ 15-20%. Theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm Việt Nam có khoảng 175.000 ca lao mới các thể trong đó lao màng não chiếm khoảng 1%. Như vậy, hàng năm nước ta có khoảng 1.750 ca lao màng não.

Mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ, nhưng lao màng não được xem là thể lao nặng nhất vì bệnh có thể giết chết hoặc gây tàn phế nặng cho khoảng một nửa bệnh nhân. Ở các nước phương Tây lao màng não có khuynh hướng giảm song song với các thể lao khác nhưng ở các nước đang phát triển lao màng não vẫn là một nguyên nhân viêm màng não phổ biến do vi khuẩn gây ra, đặc biệt ở người nhiễm HIV.

Bệnh lao nói chung, lao màng não nói riêng, là bệnh lý cơ hội chủ yếu và là nguyên nhân tử vong hàng đầu cho người nhiễm HIV/AIDS.

Theo một nghiên cứu đa trung tâm và ngẫu nhiên ở Việt Nam về lao màng não thực hiện bởi bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, bệnh viện Bệnh nhiệt đới và Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford (Anh Quốc) từ 2001-2004, tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân lao màng não người lớn không nhiễm HIV xấp xỉ 32%. Nếu kể cả số bệnh nhân có di chứng thần kinh nặng sau điều trị thì con số này lên đến 50%.

Như vậy, ước tính mỗi năm nước ta có 875 ca chết hoặc có di chứng nặng về thần kinh do lao màng não gây ra.

Một nghiên cứu khác cũng được thực hiện bởi ba đơn vị trên từ 2007-2008 cho thấy lao màng não ở những bệnh nhân nhiễm HIV tỷ lệ tử vong lên đến 67%, mặc dù có kết hợp với việc điều trị thuốc kháng vi-rút HIV ngay từ khi điều trị lao. Đây quả là một thực tế đáng thất vọng!

Mặc dù ngày nay y học đã đạt nhiều tiến bộ nhưng điều trị lao màng não vẫn là một thách thức. Ảnh: TL


Chẩn đoán và chữa trị đều khó

Lao màng não khởi đầu có biểu hiện khá mơ hồ và trùng lắp với các bệnh viêm màng não khác hoặc các bệnh lý nhiễm khuẩn thông thường khác. Triệu chứng chủ yếu là sốt nhẹ, cũng có khi sốt cao, vào lúc chiều tối, sau đó nhức đầu tăng dần và có thể có ói vọt. Khi diễn tiến nặng hơn, bệnh nhân sẽ rối loạn tri giác như lơ mơ, hôn mê và co giật. Nếu khám bệnh nhân lao màng não, bác sĩ sẽ phát hiện dấu hiệu cứng cổ, có thể có dấu hiệu tổn thương dây thần kinh sọ não, kèm theo liệt một tay, một chân hoặc nửa người. Bệnh nhân cũng có thể có tổn thương tủy sống dẫn đến liệt hai chân và bí tiểu. Đặc biệt trẻ em hay bị co giật nhiều hơn người lớn.

Chẩn đoán bệnh lao màng não hiện còn gặp khá nhiều khó khăn vì các triệu chứng thường trùng lắp với các triệu chứng của các bệnh lý khác. Chẩn đoán phải dựa vào chọc dịch não tủy, đây là một thủ thuật xâm lấn tuy an toàn nhưng khá đau đớn. Các xét nghiệm về vi trùng học của dịch não tủy thì không nhạy và có thể mất rất nhiều thời gian đưa đến chậm trễ trong chẩn đoán.

Ví dụ như ca của em bé trên đã mất đến 6 ngày nằm tại bệnh viện lớn mới có được chẩn đoán và có những trường hợp mất cả một, hai tháng mới có chẩn đoán bệnh. Việc chậm trễ trong chẩn đoán sẽ dẫn đến chậm trễ trong điều trị và dĩ nhiên sẽ đi liền với tốn kém không biết bao nhiêu tiền bạc, công sức và đặc biệt là tỷ lệ tử vong và di chứng sẽ tăng vọt.

Mặc dù ngày nay y học đã đạt nhiều tiến bộ nhưng điều trị lao màng não vẫn là một thách thức. Một phần là công thức điều trị lao màng não không có nhiều thay đổi kể từ năm 1959 - là năm tìm ra loại thuốc lao chủ lực Rifamycine. Từ đó đến nay, con người vẫn chưa tìm ra được công thức nào điều trị lao màng não tốt nhất.

Phòng ngừa lao cũng là phòng ngừa lao màng não

Để phòng ngừa lao cho bản thân: Trẻ sơ sinh phải được tiêm chủng BCG đầy đủ. Sống trong môi trường thoáng mát, sạch sẽ. Dinh dưỡng đầy đủ. Sinh hoạt điều độ: hạn chế thức khuya và dậy sớm. Không lạm dụng các chất gây nghiện như: bia, rượu, thuốc lá; không sử dụng ma túy...

Để phòng ngừa lao cho cộng đồng: Nếu có triệu chứng ho kéo dài từ 2 tuần trở lên phải đi khám phổi. Nếu bị phát hiện lao phổi phải nghỉ ngơi tại nhà và hạn chế tiếp xúc với người thân ít nhất 2 tuần sau điều trị, mỗi khi ho phải che miệng lại, phải đeo khẩu trang y tế. Phải uống thuốc đúng và đầy đủ theo hướng dẫn của nhân viên y tế.

TS-BS. Nguyễn Đức Bằng

(Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM)

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất
Top những Nha khoa uy tín Thủ Đức tốt nhấtTham khảo Lựa chọn an toàn

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.