Sau 10 năm, khi CGV chiếm thị phần cao nhất thì ngược lại, hệ thống rạp chiếu phim của nhà nước đứng trước nguy cơ bị diệt vong.
Rạp nhà nước, doanh thu cả năm từ 20 – 30 triệu
Khi người dân các đô thị lớn sẵn sàng bỏ cả trăm ngàn đồng mua một vé xem phim, cập nhật các bộ phim mới nhất của Hollywood cùng lúc với thị trường Mỹ thì tại Bến Tre, chế độ phụ cấp cho nhân viên chiếu bóng lưu động hiện nay của mỗi đêm chiếu là 10.400đ/ người. Trung tâm chiếu bóng Hải Phòng có 3 rạp, đều gần trung tâm thành phố nhưng luôn không đủ khách để mở chiếu, nếu chiếu cũng chỉ 2, 3 người xem. Tại Yên Bái, có 2 rạp chiếu phim, chủ yếu chiếu phục vụ không thu tiền. Tại Thanh Hóa, rạp chiếu phim phải cải tạo từ hội trường của Liên hiệp hợp tác xã do rạp chiếu phim tại đây đã bị chia lô bán đất. Rạp 26 -3 tại Hà Tĩnh, doanh thu chiếu phim hằng năm chỉ từ 20-30 triệu đồng.
![]() |
Trong thời điểm vụ kiện đang diễn ra, CGV và công ty BHD cũng tiếp tục “so kè”. Cuối tháng 5.2016, CGV tổ chức Tuần phim Việt 11 ngày tại TP.HCM, Hà Nội |
Các thông tin trên được các cán bộ của các trung tâm phát hành phim và chiếu bóng các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chia sẻ tại Hội thảo giải pháp đẩy mạnh công tác phát hành – phổ biến phim do Cục điện ảnh tổ chức tại Hà Nội (31.5) và TP.HCM (2.6). Thực trạng đau lòng đó không thể tránh khỏi khi 58 rạp của nhà nước hiện nay, ngoại trừ Trung tâm chiếu phim quốc gia hoạt động hiệu quả thì các rạp còn lại đều xuống cấp về cơ sở hạ tầng, lạc hậu về máy móc. Hầu hết các rạp đều sử dụng máy chiếu phim nhựa 35 li, trong khi hiện nay công nghệ sản xuất phim đã chuyển sang kỹ thuật số. Các phòng chiếu hiện đại hiện nay đều phải có thiết bị kĩ thuật số DCP (Digital Cinema Package). Các rạp địa phương không có thiết bị này thì nhà phát hành không chấp nhận cho chiếu.
Bà Ngô Phương Lan - Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam khẳng định tình hình chung các rạp nhà nước này là rạp xuống cấp, trang thiết bị lạc hậu và thiếu nguồn phim. Trong khi đó, thị trường điện ảnh Việt có mức tăng trưởng có con số khoảng 105 triệu USD vào năm 2015. Trong khoảng ba năm qua, rất nhiều phim Việt đạt con số doanh thu trên dưới 100 tỉ đồng. Theo thống kê của Cục Điện ảnh thì doanh thu từ chiếu phim tăng 20%-30% mỗi năm. Tuy nhiên, hầu hết đều rơi vào các tỉnh, thành lớn như TP.HCM, Hà Nội… với hệ thống rạp chiếu của các nhà đầu tư nước ngoài hoặc các công ty tư nhân như: CGV, Lotte, Platinum, BHD, Galaxy…
“Đại gia” CGV đối mặt với vụ kiện vi phạm luật cạnh tranh
Trong bức tranh tổng thể của thị trường điện ảnh Việt Nam, nổi bật lên là thị phần 40% rạp chiếu của công ty CJ CGV- đơn vị mà vào ngày 12.5 bị 8 doanh nghiệp điện ảnh (bao gồm BHD, Galaxy Studio, Skyline, Golden Media, Saigon Media, MVP, ER và Vaa) gửi đơn khiếu nại về việc CJ CGV lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường đưa ra tỷ lệ ăn chia không công bằng, chèn ép các nhà phát hành khác, không ưu tiên phim Việt, có dấu hiệu vi phạm luật cạnh tranh.
Hiện nay, tính tới tháng 4.2016, CJ CGV đã đầu tư hơn 120 triệu USD vào Việt Nam (xây hơn 210 phòng chiếu với gần 30.000 ghế ngồi tại 11 tỉnh thành). Dự kiến cuối năm 2016, sẽ đầu tư hơn 30 triệu USD nữa. Không chỉ dừng lại ở các đô thị lớn, CGV cho biết sẽ đặt nền móng ngay tại những tỉnh thành xa, chấp nhận rủi ro kinh doanh để “xí chỗ” như Đắc Lắc, Bình Định…
Nếu như năm 2010, MegaStar (tên cũ của CGV trước khi doanh nghiệp Hàn Quốc mua lại) bị cáo buộc sử dụng quyền lực thị trường từ việc nắm quyền phát hành đối với phim nhập khẩu (hành vi bị khiếu nại là thuê phim kèm phim, áp đặt suất chiếu, chỉ định phòng chiếu…) để gia tăng lợi thế cho các rạp chiếu phim của mình, thì lần này, CGV, lại bị cáo buộc sử dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường rạp chiếu phim để áp đặt giá bất hợp lý lên các nhà phát hành.
Trong thư khiếu nại, 8 doanh nghiệp cho rằng, dựa vào tỷ lệ áp đảo thị trường về hệ thống cụm rạp, CGV đã và đang áp đặt tỷ lệ ăn chia bất hợp lý tại hệ thống rạp của mình, phim Việt Nam do CGV phát hành tại hệ thống rạp khác tỉ lệ ăn chia là 55/45, còn với các phim Việt Nam do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành tại hệ thống CGV là 45/55… Trước cáo buộc này, đại diện CJ CGV Việt Nam, bà Lưu Hạnh – phụ trách truyền thông giải thích: “Đơn vị chiếu phim có số lượng rạp và phòng chiếu cao hơn, giá vé cao hơn sẽ mang về lợi nhuận cao hơn cho nhà sản xuất mặc dù tỉ lệ phân chia có thể chênh lệch 5-10%. Trên thực tế, cụm rạp của CGV luôn đem lại cho nhà phát hành khác và nhà sản xuất Việt số doanh thu lớn nhất. CGV luôn là đơn vị đảm bảo doanh thu tốt nhất cho các phim. Để có được điều này, CGV phải tốn chi phí đầu tư và vận hành các phòng chiếu, suất chiếu gấp nhiều lần so với các cụm rạp chiếu phim khác”.
![]() |
BHD và Cục điện ảnh phối hợp Tuần phim Việt tại Praha – CH Séc |
Trước các cáo buộc không ưu tiên cho phim Việt, CGV đưa ra các con số phim Việt chiếu tại cụm rạp CGV như “Tôi Thấy Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh” được chiếu liên tục tại cụm rạp CGV đến 81 ngày, tổng số suất chiếu là 7.683 suất, tổng số ghế là 1.184.488 ghế; phim “49 ngày” được chiếu 89 ngày; phim “Chàng trai năm ấy” được chiếu 22 ngày; phim “Ngày nảy ngày nay” được chiếu 42 ngày… Bộ phim không có doanh thu cao do BHD phát hành là “Quyên” cũng được chiếu liên tục trong 27 ngày với số suất chiếu là 833 suất. Phần lớn các phim này do các đơn vị phát hành ngoài CGV như Galaxy, BHD… phát hành.
CGV phản biện lại các cáo buộc cho rằng các cụm rạp nhận phim chiếu, dù là nước ngoài hay Việt Nam, đều phụ thuộc vào chất lượng, giá trị và nhu cầu thưởng thức của khách hàng. Các cụm rạp như Galaxy, BHD… cũng có sự chọn lọc phim cho từng cụm rạp của họ. CGV nêu ra các dẫn chứng nhiều bộ phim bị các hệ thống rạp khác từ chối vì dự đoán doanh thu không cao thì CGV vẫn nhận chiếu, như Chuyến đi cuối cùng của chị Phụng, Đập cánh giữa không trung, Người trở về, Những đứa con của làng…
Trước các phản biện của CGV, luật pháp Việt Nam hiện tại đứng về phía CGV khi Cục quản lý cạnh tranh – Bộ công thương đã có công văn trả lời Cục điện ảnh và 8 doanh nghiệp, xác định: 8 doanh nghiệp điện ảnh khiếu nại về hành vi của CGV chưa tuân thủ đúng theo thủ tục khiếu nại vụ việc cạnh tranh, các thông tin nêu trong đơn chưa rõ ràng, đầy đủ và chưa có các bằng chứng kèm theo.
Đánh giá về việc 8 doanh nghiệp điện ảnh kêu gọi nhà nước Việt Nam bảo vệ cho họ trước sự lớn mạnh mang tính thống lĩnh của CGV, luật sư Phạm Hoài Huấn- cố vấn pháp lý của Victory LLC nhận định: “Có thể thấy rằng CGV khá là khôn ngoan khi lợi dụng vị thế của mình trên thị trường chiếu phim (40%). Mặc dù không hài lòng, nhưng nhà phân phối phim VN buộc phải bán phim cho CGV để nhận được tỉ lệ 45% mà cụm rạp này dành cho họ. Vì nếu không bán quyền chiếu phim cho CGV thì doanh thu mà các nhà phân phối VN thu được còn thấp hơn. Nhìn từ khía cạnh của nhà sản xuất phim, ta thấy một khía cạnh khá thú vị. Việc bán phim khác hoàn toàn việc bán các loại hàng hóa khác. Nếu bán một món hàng, ví dụ bánh kẹo, nhà sản xuất phải đối diện với qui luật hiệu suất giảm dần. Nói cho dễ hiểu, để có thể sản xuất ra một đơn vị sản phẩm doanh nghiệp phải đầu tư nguồn lực: nhân công, nguyên nhiên liệu, máy móc... Bán càng nhiều thì chi phí sản xuất hàng hóa đó cũng gia tăng. Cho nên, đôi khi bán nhiều, chưa chắc đã mang lại tỉ suất lợi nhuận lớn.
"Lẽ ra, khi bắt đầu thấy sự phát triển rất là “cội rễ” của MegaStar, nhà nước phải sớm có các chính sách bảo hộ công nghiệp điện ảnh trong nước... Quy hoạch về văn hóa phải song song với quy hoạch kinh tế một cách thiết thực, tâm huyết, khả thi, chứ không phải làm chiếu lệ và khi cần bất cứ lúc nào cũng có thể hủy bỏ quy hoạch với những lý do nào đó. Đúng là hiện nay đất rất hiếm nhưng cũng không đến nỗi không có giải pháp" |
Nhưng là một nhà sản xuất phim, bởi nhà sản xuất phim chỉ sản xuất một phim chi phí sản xuất bộ phim đã được xác định. Việc 1000 người coi hay mười ngàn người coi không làm ảnh hưởng đến chi phí sản xuất phim. Cho nên, đối với các nhà sản xuất phim tỉ lệ 45% hay 55% không quan trọng. Các nhà sản xuất phim sẽ có khuynh hướng giao bộ phim mà mình sản xuất cho nhà phân phối nào mang lại doanh thu cao cho họ. Với ưu thế về cụm rạp, CGV có ưu thế để ép doanh thu các nhà phân phối phim Việt Nam thấp. Như vậy, các nhà sản xuất phim VN sẽ không giao phim cho nhà phân phối VN mà khả năng lớn là họ sẽ giao cho CGV. Bản chất việc lùm xùm này là các bên đang tranh nhau quyền phân phối phim. Khi ưu thế bị mất, doanh sẽ phải “tự vệ”. Việc họ khiếu nại đến nhiều nơi cũng là điều dễ hiểu. Nhưng là cơ quan nhà nước, thực hiện chức năng quản lý theo phân cấp, thì cần phải hành xử đúng luật. Bất kì một ưu ái nào dành cho doanh nghiệp không dựa trên qui định pháp luật thì đó đều là điều bất thường trong một nền kinh tế thị trường”.
TS. Nguyễn Ngọc Sơn – trưởng khoa Luật ĐH Tôn Đức Thắng cũng bày tỏ quan điểm về việc Việt Nam đang tham gia vào các diễn đàn kinh tế quốc tế, do đó, luôn phải thượng tôn pháp luật và nếu sử dụng các biện pháp giải quyết ngoài pháp luật chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút đầu tư, ảnh hưởng đến diện mạo của môi trường đầu tư.
Trong lúc chờ đợi 8 doanh nghiệp tìm kiếm các bằng chứng chứng minh (nếu họ tiếp tục theo đuổi vụ kiện), luật sư Phạm Hoài Huấn chia sẻ về sự quan ngại của mình với các doanh nghiệp Việt: “Trong tương lai, khi các nhà phân phối phim của Việt Nam đã bị loại bỏ khỏi thị trường (với những chiến lược mà CGV áp dụng), các nhà sản xuất phim và cả những nhà chiếu phim Việt Nam khác sẽ rất khó khăn. Rõ ràng CGV đã có sự chuẩn bị rất chu đáo, khi mà các chiến lược của họ lại không vi phạm luật cạnh tranh. Cho nên, ưu thế của họ không chỉ đến từ tiềm lực tài chính mà còn xuất phát từ cả ở sự đầu tư mạnh mẽ cho chiến lược cạnh tranh và pháp lý. Ở một khía cạnh nào đó, nó cũng thể hiện một cách làm việc thiếu chuyên nghiệp từ các doanh của VN. Khoan chưa bàn chuyện đúng hay sai, cái căn bản nhất của tất cả các qui trình tố tụng đó là thể thức văn bản và các chứng cứ kèm theo. Việc các doanh nhiệp tiến hành khiếu kiện nhưng chưa có sự đầu tư cần thiết về mặt pháp lý như vậy khá là đáng tiếc”.
Cần lắm những giải pháp
Sau khi Cục quản lý cạnh tranh trả lời vụ khiếu kiện, 8 doanh nghiệp hiện tại chưa lên tiếng về quan điểm của họ, nhưng đại diện công ty BHD, bà Ngô Thị Bích Hiền chia sẻ: “Một môi trường luật pháp công bằng là điều bắt buộc để các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh ... Và đôi khi nếu luật pháp ấy chưa cần phải có trong luật thì chỉ cần chút tầm nhìn chia sẻ là đã có thể cùng nhau thực hiện mà không cần phải quá sòng phẳng, nhất là khi đó là những sản phẩm về văn hoá ...”. Ông Đoàn Tử Tích Phước (Nguyên Điều tra viên cạnh tranh của Bộ Công Thương) cũng có quan điểm ủng hộ các nhà phim Việt khi cho rằng: “Về lâu dài, không thể trì hoãn việc sửa đổi Luật Cạnh tranh để phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như đòi hỏi của thực tiễn môi trường cạnh tranh trong nước. Đạo luật này đã được ban hành từ hơn một thập kỷ trước, khi chúng ta chưa có WTO cũng như các hiệp định thương mại tự do, cũng như chưa nhìn thấy viễn cảnh của một TPP trong tương lai”.
Không thể phủ nhận các doanh nghiệp tư nhân trong nước như Galaxy, BHD… từ những khó khăn ban đầu nhưng đã rất tích cực trong việc xây các cụm rạp và tham gia phát hành phim, đưa khán giả đến với phim Việt Nam ngày càng nhiều hơn. Nhưng trước nỗi lo bị thống lĩnh của các tập đoàn nước ngoài như CGV, bà Nguyễn Thế Thanh – nguyên Phó giám đốc Sở Văn hóa thông tin TP.HCM trong bài trả lời của mình dành cho Thời báo kinh tế Sài Gòn đã nhận định: “Lẽ ra, khi bắt đầu thấy sự phát triển rất là “cội rễ” của MegaStar, nhà nước phải sớm có các chính sách bảo hộ công nghiệp điện ảnh trong nước. Ví dụ, khi tiến hành đàm phán các hiệp định thương mại tự do như WTO ta cố gắng đưa ra lộ trình mở cửa chậm hơn một chút và ngay từ thời đó, khuyến khích, ưu đãi doanh nghiệp tư nhân trong nước và cả quốc doanh đầu tư, phát triển theo hướng này. Vậy mà mình đã để cho doanh nghiệp tư nhân trong nước tự chòi đạp lâu quá, đơn độc quá. Họ ít vốn, gần như không được ưu đãi gì, không cạnh tranh nổi nên bài toán tài chính tương lai sẽ là bán cổ phần cho nước ngoài. Đổ thừa hết cho nhà đầu tư nước ngoài không phải là cách hay, phải nhìn lại trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền các địa phương. Quy hoạch về văn hóa phải song song với quy hoạch kinh tế một cách thiết thực, tâm huyết, khả thi, chứ không phải làm chiếu lệ và khi cần bất cứ lúc nào cũng có thể hủy bỏ quy hoạch với những lý do nào đó. Đúng là hiện nay đất rất hiếm nhưng cũng không đến nỗi không có giải pháp”.
Tuy nhiên, giải pháp đó là gì hiện nay vẫn chưa được đặt ra. Pháp luật của các nước và Việt Nam không cấm các doanh nghiệp phát triển, cho dù sự phát triển đó đạt đến mức thị phần lớn. Bởi lẽ nếu pháp luật áp dụng chế tài đối với các doanh nghiệp đạt thị phần lớn thì chắc chắn sẽ triệt tiêu động lực phát triển vì chẳng còn doanh nghiệp nào “dám lớn”. Do đó, giải pháp đó làm sao để có thể tôn trọng và bảo hộ các quyền lợi ích của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, nhưng vẫn đảm bảo cho các doanh nghiệp Việt sự tự tin để chơi trong sân nhà với nhiều lợi thế về văn hóa, nhất là trong một lĩnh vực như điện ảnh.
Trâm Anh