Người bán rong giàu tự trọng
Biểu nhìn giống cậu học trò tối ngày đèn sách hơn là một anh bán dạo. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh dắt xe đạp đi qua Thọ Xương, đã để mắt đến nhưng không gọi. Lần thứ hai, cũng đi ngược chiều trên con ngõ nhỏ ấy, có lẽ mắt tôi nấn ná ở chiếc xe đạp màu kem và thùng xốp đá trắng toát lâu hơn một người đi đường tình cờ, nên bước chân anh cũng chần chừ theo. Là một người bán rong, nhất là một người bán rong cương quyết không rao, không mời chào vì lúc nào cũng ngại làm phiền đến người khác, có lẽ chiến thuật duy nhất của anh trong những ngày đầu là để ý thật nhanh và thật kỹ ánh mắt của những người xung quanh. Với tấm biển quảng cáo cà phê arabica Đà Lạt “nguyên chất và rang mộc”, Biểu mong ước rằng chiếc xe dạo này sẽ góp phần truyền bá thói quen uống arabica Việt, cũng như cà phê nguyên chất đến người dân Hà Nội.
“Cà phê Việt là đam mê lớn nhất của đời tôi. Người Việt Nam chủ yếu uống robusta, còn arabica chưa phổ biến bằng vì giá cao hơn. Đam mê cà phê nguyên chất nên lợi nhuận không phải là mục tiêu lớn nhất của tôi. Bán mỗi cốc cà phê tôi lời chưa đến 5.000 đồng, bằng phân nửa nhiều quán khác. Chúng tôi xác định chỉ là một thương hiệu chuyên sản xuất và bán sản phẩm cà phê arabica Việt Nam chất lượng cao với quy mô nhỏ”, Biểu kể. Hiện giá bán phổ biến các thức uống cà phê của Biểu dao động 15.000 đồng - 30.000 đồng/ly.
Biểu là người bán rong có tuổi nghề trẻ nhất trong những người tôi đã từng nói chuyện, cũng là người có câu chuyện đặc biệt nhất. Quê gốc Thái Bình, sinh sống từ nhỏ tại Đà Lạt, anh nói giọng Bắc, nhưng không biết vì sống ở cao nguyên hiền hoà quá lâu, hay vì cay đắng chưa đủ để làm bản chất thư sinh biến mất, nên chất giọng Bắc ấy mềm chứ không đanh, cũng không khàn đi vì nắng gió. Quán cà phê Mộc ở Đà Lạt mở ra với mong muốn làm một thư viện mini cho các bạn nhỏ bị sập tiệm vì anh cương quyết cấm hút thuốc. Trôi dạt về Hà Nội, anh không đủ vốn để làm gì to hơn, nên nhờ bố chuyển cà phê arabica đã rang theo đường ôtô, tự tay xay, rồi đạp xe quanh phố bán rong từng ly một.
Anh là một người bán rong giàu lòng tự trọng, thà mua loại cốc giấy tự huỷ làm từ bã mía và bắp “Made in Vietnam”, gắn thương hiệu riêng “Acafé” lên từng chiếc cốc và cả chiếc thùng xốp, chứ nhất định không dùng cốc nhựa Trung Quốc giá chỉ một phần mười. Anh thà cuối ngày đổ cà phê đã xay nhưng không bán hết, chứ nhất định không để lại dùng tiếp ngày hôm sau. Anh thà dắt xe lững thững, lướt qua con mắt của bao người như một kẻ vô hình, chứ nhất định không mời chào, chèo kéo. Anh bán cho những người hàng thịt, hàng rau, những người buôn thúng bán bưng ngoài chợ và chịu lỗ, chứ không chịu tăng giá để bán cho những người vốn đã giàu và thừa khả năng thưởng thức cà phê ở những chốn đắt tiền hơn. “Sắp tới, tôi còn có kế hoạch in các tờ giới thiệu để quảng bá tới khách hàng, giúp họ hiểu thêm về cà phê arabica cũng như thương hiệu mà tôi đang theo đuổi”, Biểu hào hứng.
Những ngọn nến đốt bằng cà phê
Thật ra, Biểu không chỉ muốn là một người bán rong, anh muốn thay đổi khẩu vị của những người uống cà phê, và mang loại cà phê hiếm hoi quý phái vốn chỉ dành cho những nơi sang trọng đến từng đầu đường xó chợ để phục vụ cho những người không có thời gian lẫn tiền bạc để nhâm nhi cà phê sáng. Có lẽ khi họ cảm nhận được sự ngọt ngào của loại cà phê chè không hoá chất không hương liệu, cuộc sống của họ cũng sẽ vì thế mà bớt nhọc nhằn đắng cay hơn chăng?
Biểu muốn người Việt, đặc biệt là những người bình dân, biết đến, hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của cà phê chè. Anh bảo khách hay chê “cà phê gì mà nhạt thế”, vì họ quen thứ cà phê pha tạp đắng chát. Dù đang ở trên đất nước xuất khẩu cà phê lớn nhất nhì thế giới, khẩu vị của người Việt vẫn đang hỏng dần vì hàng loạt loại cà phê dỏm, vì lợi nhuận mà người bán pha trộn các thứ như bắp, đậu, hoá chất vào cà phê.
Biểu muốn người Việt, đặc biệt là những người bình dân, biết đến, hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của cà phê chè.
Mỗi lần gặp lại thấy Biểu đã cải tiến thêm một chút, lúc đầu chỉ là một chiếc thùng xốp để đá tạm, sau một tuần đã thành một chiếc thùng cứng cáp hẳn hoi; rồi thêm một cái khay di động gắn vào ghi đông, khi pha cà phê cho khách sẽ mở ra (giống như khay ăn trên máy bay), xong thì gập lại. Vài ngày sau nữa, lại thấy anh có thêm chiếc khăn xô để lau sạch những giọt ca phê vương trên miệng cốc, trước ngực đeo tạp dề, hai tay đeo găng nylông. Mới đây, trên facebook của rengrengcafe, Biểu thông báo từ 1.12.2014 sẽ bán hàng bằng chiếc xe đẩy khá sang trọng trên vỉa hè phố cổ Hà Nội với các món cà phê đều được phục vụ như cũ, bán như bình thường.
Vẫn biết thay đổi thói quen của một người đã không dễ, thói quen của cả một xã hội lại càng khó. Nhưng thay vì tốn giấy mực để phân tích sự khó khăn ấy, và kết luận câu quen thuộc “không thể làm được”, Biểu đã bắt tay vào làm để mỗi cốc cà phê bán ra hàng ngày như một ngọn nến được thắp lên, dần dần những vòng quay của bánh xe đạp anh rong ruổi khắp phố sẽ cháy bùng thành ngọn lửa rực rỡ.
______________
Cà phê arabica có danh pháp khoa học coffea arabica, còn gọi là cà phê chè, có hai loại: cà phê moka và cà phê catimor. Đây là loại có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Trên thị trường, cà phê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối (canephora hay robusta) vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng caffein hơn. Một bao cà phê chè (60kg) thường có giá cao gấp đôi một bao cà phê vối.
_____________
Bài: Nguyễn Hồng Vân Ảnh: Q.T.K