Nghê Việt có mấy phần Lân?

 11:44 | Thứ hai, 17/11/2014  0

>>> TÌ HƯU: “sát thủ” đáng gờm hơn cả sư tử đá 

>>> Thảm bại thiết kế Việt, nhìn từ Bát Tràng 

Khái lược về con nghê Việt

Nghê là con vật biểu trưng, mang yếu tố huyền thoại với mỗi bước nhảy hàng trăm dặm. Nghê thiên biến vạn hoá, nhanh nhẹn, dũng mãnh, tượng trưng cho trí tuệ, là biến thể từ loài sư tử và chó dữ, có sức mạnh như chúa tể muôn loài; nghê hoá rồng biểu trưng cho quyền lực chính trực; nghê có mình chó thể hiện lòng trung thành; nghê ngậm ngọc là biểu tượng độc đáo của sự khôn ngoan (phải suy nghĩ, uốn lưỡi và lựa lời trước khi nói); nghê đeo lục lạc hay giỡn hí cầu… thể hiện sự tinh nghịch, lạc quan, vui tươi; nghê có lông hình xoắn ốc như trên đầu tượng Phật thể hiện sức mạnh toàn năng, phi phàm. Con nghê được thể hiện bằng mọi chất liệu: gỗ, đá, gốm, đất nung, sành, sứ, đồng… với nghệ thuật tạo dáng và kỹ thuật chạm khắc tinh tế, thông qua những cảm thức sáng tạo và khiếu thẩm mỹ đặc sắc chứng tỏ khả năng tạo hình của cha ông ta đã có từ rất sớm và đạt tới trình độ cao, nhất là khi nền văn hoá thuần Việt phục hồi và phát triển sau hàng ngàn năm Bắc thuộc.

Ngay từ thế kỷ I đến thế kỷ III, đã có tượng nghê đồng, bờm dựng ngược, miệng nhăn răng, cổ đeo lục lạc, trong tư thế ngồi, bốn chân đều có móng vuốt, đuôi vểnh giống như đuôi chó. Nhà sưu tập Nguyễn Thị Tú Anh ở Nguyễn Kiệm - Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh hiện sở hữu một bộ sưu tập nghê rất phong phú với hơn năm mươi con. Số nghê này chủ yếu làm bằng chất liệu gỗ, có niên đại từ thời Lê đến đầu Nguyễn.

Sử dụng Sư tử hay Kì lân để trấn yểm hoàn toàn xa lạ với văn hoá Việt. Ảnh: Sư tử được đặt tại chùa Bái Đính, Ninh Bình.

Chúng tôi xin chọn ba con nghê tiêu biểu cho ba giai đoạn để tìm hiểu về ba phương thức tạo hình bằng phương pháp nghiên cứu đối sánh:

Nghê thời Lê có niên đại thế kỷ XVI-XVII với những đặc điểm tạo dáng vững chãi, nửa như đứng chầu, nửa như muốn bay lên trong khoảnh khắc muốn hoá rồng. Những mảng khối âm, dương hoà quyện khá tinh tế tạo nên một dáng oai vệ. Nghệ thuật tạo hình phối hợp yếu tố chạm khắc trang trí vừa đơn giản, vừa cách điệu đã tạo nên những chi tiết chạm khắc giàu có, vừa khoẻ khoắn vừa mềm mại, thanh thoát. Với cách xử lý tạo hình biểu tượng mang tính trang trí cao, nghệ nhân đã tạo nên hình con nghê thật sống động. Những vẩy rồng trên đầu và thân tạo cho con vật thêm linh thiêng.

Nghê do người “Hoa - Nam Bộ” (được làm khoảng thế kỷ XVIII) không rườm rà chi tiết chạm, ngược lại, được diễn tả mượt mà, đơn giản, có nhiều khối hình như được chuốt tới mức nhẵn phồng, căng bóng. Đặc điểm và nét dáng con nghê này gần giống với con chó có đầu hơi to trong đời. Nơi sông nước, kênh rạch, trong suốt quá trình khẩn hoang, con chó luôn gần gũi, gắn bó với con người Nam Bộ nói chung và người Hoa nói riêng. Theo năm tháng, con chó trung thành được biến thể bằng trí tưởng tượng phong phú của con người, thành con nghê - biểu trưng đời sống tâm linh của người phương Nam. Cách cảm, cách nghĩ, cách tạo hình của người Hoa Nam Bộ cũng phảng phất hơi hướng thẩm mỹ chân phương của người Việt ở Nam Bộ nước ta, do đó con nghê của người Hoa - Nam Bộ được tạo nên một vẻ đẹp riêng, không hề chịu sự ảnh hưởng, hay sao chép những công thức tạo hình bóng bảy, cầu kỳ như cha ông họ từ Trung Hoa.

Nghê thời Nguyễn có niên đại muộn hơn (đầu thế kỷ XIX), kích thước nhỏ hơn, hình khối căng tròn đầy và có xu hướng tả thực ở các phần lưng, chân, đùi. Những râu, ria, bờm, tóc và đuôi được mô tả bằng những đường nét trang trí khá trau chuốt, tỉ mỉ thậm chí cầu kỳ. Do quá tập trung diễn tả các chi tiết ở phần đầu, phần thân theo chiều nghiêng, mà dáng nghê nhìn từ đằng sau có phần thô và nặng nề, với cái đuôi xòe tròn, xoắn ốc, hai chân thô và ngắn, có đôi tai vểnh như tai miêu… hao hao hình mẫu con lân theo cách tạo dáng, hình khối và chi tiết trang trí theo kiểu Trung Hoa.

Con lân - biểu tượng trang trí tạo hình Trung Hoa

Rất nhiều người dễ bị nhầm lẫn giữa con nghê với con lân - một trong “tứ linh” của văn hoá Trung Hoa.

Về diện mạo, con lân giống sư tử nhiều hơn, và có sừng, thân hình tròn mập, đuôi ngắn, miệng ngậm quả cầu hay ngồi chống chân lên quả cầu. Trong khi đó, con nghê của Việt Nam có kỳ mà không có sừng, dáng thanh, mình thon nhỏ, trông giống như dáng chó, đuôi dài.

Tuy nhiên, việc phân biệt này đôi khi cũng gây nhiều tranh cãi. Một số bình hương, chân đèn gốm Việt Nam thời Chu Đậu vào khoảng thế kỷ XVI-XVII, cũng có hình lân, nhìn vào thấy rõ con lân chứ không phải là nghê. Ngoài ra, ngay cả cuốn sách nổi tiếng Vietnamese Ceramics a Separate Tradition của John Guy và Jonh Stevenson cũng đã ghi chú nhầm con nghê vào một số hình con lân bên cạnh nhiều bình hương trầm cần minh hoạ.

Trong Giáo trình Mỹ thuật cổ truyền Việt, của viện Văn hoá nghệ thuật quốc gia Việt Nam, GS.TS Trần Lâm Biền đã khẳng định: “Con lân chắc chắn là một hiện tượng du nhập”. Để chứng minh cho luận điểm này, nhà nghiên cứu đã nêu dẫn chứng  bằng di chỉ khảo cổ tìm thấy ở trên gạch múi bưởi tại mộ cổ đời Hán ở làng Cổ Bi (Gia Lâm - Hà Nội) cách đây hơn 2.000 năm. Con lân này có đầu sư tử, mắt quỷ nhìn ra, trong khi thân được thể hiện theo kiểu nhìn nghiêng. Theo ông, con lân này ở buổi đương thời đã “chứa đựng trong thân nó một ý nghĩa gắn với quyền uy mà những người đại diện cho kẻ xâm lược chưa đủ khả năng lấy nó làm biểu tượng cho mình”.

Khi đất Việt được tự chủ, con lân trở thành linh vật dung hội của nhiều nền văn hoá. Chính người Việt đã tiếp biến “cải tạo” con lân Trung Hoa ở các khía cạnh đời sống tâm linh, tôn giáo và biểu đạt tạo hình.

Chế độ phong kiến Việt Nam trải qua các triều đại với những biến động thăng trầm mà trong đó sự phát triển của kiến trúc đình, chùa xuất phát từ sự giàu có của giới quý tộc, trưởng giả đòi hỏi ngày một nhiều những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và trưng bày. Dựa trên số lượng và phẩm tính của những con nghê trong các viện bảo tàng và các nhà sưu tập, có lẽ thời thịnh đạt nhất của con nghê là từ thời nhà Lý (thế kỷ XI) cho đến cuối đời Tây Sơn (thế kỷ XVIII). Con nghê được trọng dụng ở khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, cho tới cung điện, đình, đền, chùa, lăng, miếu… Trong suốt tám thế kỷ, các bình hương trầm, các nậm rượu, các hình tượng nghê là những món không thể thiếu ở những nơi tế tự, ở các nhà trưởng giả cho đến nhà bình dân.

Sau khi thống nhất đất nước, triều Nguyễn - có lẽ do mặc cảm và thù ghét các dấu vết văn hoá nhà Trịnh và Tây Sơn, nên có giai đoạn “vọng ngoại”, gần gũi, chịu ảnh hưởng nước ngoài (ngoại lai) bởi xu thế ưa chuộng văn hoá Trung Hoa hơn là điều dễ hiểu. Trong bối cảnh ấy, con nghê ít được dùng và bị lai dần theo cách tạo hình con lân của Trung Hoa là một thực tế lịch sử. Ban đầu, cách tạo hình trang trí còn mang đậm phong cách thời Lê, nhưng càng về sau ảnh hưởng theo cách thức tạo hình Trung Quốc.

Trong thực tế, người Việt coi con trâu để cày ruộng và con chó để giữ nhà - như những người bạn thân thiết. Trong đời sống tinh thần, tổ tiên ta cũng cần có linh vật để chống lại các tà ma, ác quỷ và canh giữ cho gia chủ. Thiết nghĩ, có lẽ vì thế, chó đá thường được dựng lên trước mỗi cổng làng, cổng đình, cổng nhà, ngoài đầu hồi… tại nhiều làng quê miền Bắc nước ta. Thế rồi, để bày trước điện thờ hay bàn thờ của các nhà giàu có, ở các đền thờ, đình, miếu… chó đá hoá linh và được khắc đẽo với những chi tiết oai vệ, thông qua trí tưởng tượng phong phú của con người mà con vật gần gũi được sáng tạo thành con nghê - biểu tượng linh thiêng trong đời sống tinh thần của người Việt?

Đặc biệt, có một điều lý thú nữa là, khi khảo sát một môtíp trang trí hay được đồng bào dân tộc Dao Tiền thuộc các tỉnh biên giới phía bắc nước ta rất ưa sử dụng - đó là hình hai con chó “Tua-chồ” chụm đầu lại. Đây chính là vật linh thiêng, được người Dao Tiền xem như “bùa hộ mệnh”, giúp bảo vệ con người tránh được thú dữ, thiên tai. Chó “Tua chồ” hay được dệt trên vải thổ cẩm. Bằng hình thức tạo hình cách điệu, tạo nên biểu tượng linh vật ở đuôi thắt lưng người Dao Tiền, phải chăng chính là hình tượng con nghê Việt đã có từ lâu?

Giữ bản sắc nhưng không bài ngoại


Linh vật đá thường dùng trấn giữ cửa nhà, hoá giải hung khí chiếu tới khi đối diện với cửa nhà khác, hoặc nơi ngã ba, ngã tư. Ảnh minh hoạ: Internet

Trong xu thế hội nhập, sự tiếp biến tỉnh táo, có chọn lọc bao giờ cũng vẫn là giải pháp khôn ngoan nhất để giữ gìn bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, cũng xin đừng sa vào chiều hướng cực đoan quá mức khi phủ nhận sạch trơn, bài ngoại tối đa rồi dẫn tới đóng cửa tuyệt đối với ảnh hưởng từ bên ngoài.

Thiết nghĩ, những giá trị gì mà tổ tiên ta đã có công Việt hoá, ta vẫn nên có trách nhiệm bảo tồn và tiếp tục phát huy. Đó chính là lối ứng xử có văn hoá, có trình độ đối với di sản của tiền nhân. Với những yếu tố ngoại lai mới, tuy không nên cấm, nhưng các cấp quản lý mỹ thuật cần kiểm soát chặt chẽ và thẩm định trên cơ sở tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn, tránh việc hoàn toàn thả nổi để chúng được tự do nhân bản ồ ạt theo phong trào.

Việc chủ động nhận diện rõ những yếu tố ngoại lai trong thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công, mỹ nghệ, đồ dùng trong đời sống tín ngưỡng và sinh hoạt hàng ngày… luôn luôn đòi hỏi một sự hiểu biết thấu đáo về chuyên môn; sự quan tâm đồng bộ từ các cấp quản lý, lẫn các nghệ sĩ, các nhà chuyên môn khắp mọi lĩnh vực hoạt động mỹ thuật từ giới nghiên cứu, giới sáng tác, sưu tầm… đến cả lĩnh vực đào tạo cho sinh viên, nghệ nhân, thợ thủ công… làm nghề mỹ thuật nói chung và mỹ thuật ứng dụng nói riêng.

Th.s Nghệ thuật, NCS, hoạ sĩ  Đỗ Lệnh Hùng Tú

______________

Bài viết trích từ tham luận "Nhận diện yếu tố ngoại lai qua đối sánh hình tượng con nghê & con lân trong mỹ thuật cổ truyền Việt" tại Hội thảo khoa học Mỹ thuật ứng dụng trên đường tìm về bản sắc Việt ngày 28 và 29.19, do trường đại học Văn Lang phối hợp với hội Mỹ thuật TP.HCM tổ chức. Tác giả Đỗ Lệnh Hùng Tú là trưởng cơ quan đại diện báo điện tử Tổ Quốc tại phía Nam. Tựa và tít phụ đăng báo do Người Đô Thị đặt.

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.