Nhân 70 năm tổng tuyển cử 6.1.1946:

Cội nguồn pháp lý của nền cộng hòa đầu tiên

 10:11 | Thứ năm, 19/05/2016  0

Giai đoạn này và các công việc của nó có thể hiểu theo nhiều tầng, nhiều góc độ và chiều kích khác nhau. Ở nhiều quốc gia khác, trong những tình huống tương tự, sau khi làm cách mạng thành công, giành được chính quyền, lực lượng lãnh đạo cách mạng (LLLĐCM) có thể củng cố quyền lực của mình bằng cách mà họ muốn. Trong không ít trường hợp, khi mới giành thắng lợi, vị trí mong manh, thù trong giặc ngoài, LLLĐCM có thể xây dựng, củng cố quyền lực bằng phương pháp nghiêng về hướng độc tài, rồi sau khi quyền lực đã vững chắc, tình hình đã ổn định thì mới từng bước mở rộng dân chủ. Quá trình này, ở không ít quốc gia, kéo dài nhiều thập kỷ. Ở Việt Nam, sau khi CMT8 thắng lợi, thì sao?

Chọn lựa phương thức xây dựng, củng cố chính quyền

Nghiên cứu kỹ tình hình đất nước sau CMT8, cho thấy sự chọn lựa phương thức xây dựng và củng cố quyền lực của LLLĐCM là cực kỳ quan trọng. Câu hỏi đầu tiên được đặt ra: mục tiêu của LLLĐCM lúc bấy giờ là gì? Để trả lời câu hỏi này, phải trả lời một câu hỏi căn bản hơn: LLLĐCM giành chính quyền nhằm mục đích gì? Trả lời câu hỏi thứ hai là trả lời về bản chất của LLLĐCM, bản chất của cuộc cách mạng. Tùy theo lợi ích mà LLLĐCM theo đuổi, sau khi giành được chính quyền, họ sẽ củng cố quyền lực theo phương thức phù hợp với lợi ích đó và để thực hiện lợi ích đó. Ví dụ, có thể có một cách sau đây: LLLĐCM có thể tuyên bố thành lập chính quyền của mình, tự mình soạn thảo cương lĩnh, thậm chí hiến pháp, rồi ban bố buộc mọi người phải theo, rồi đề cử những người của phe nhóm mình lãnh đạo các cương vị của chính quyền ấy, và dùng ngay chính quyền được thành lập như vậy để cai quản đất nước, chí ít là trong một thời gian vài năm đầu. Các tư liệu lịch sử cho thấy Hồ Chí Minh và đồng chí của mình đã không làm như vậy.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp hình cùng đại biểu Quốc hội khóa 1 năm 1946. Ảnh TL

Ngày 3.9.1945, một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, thành lập Chính phủ lâm thời, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Hồ Chủ tịch đề nghị: “Trước do chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”.

Vì sao có đề nghị này? Theo tôi, lý do đầu tiên có thể tìm thấy trong Tuyên ngôn Độc lập. Tuyên ngôn có đoạn viết: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Ngay từ ngày thứ hai sau khi cách mạng thành công, LLLĐCM, là Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó, và Mặt trận Việt Minh, mà vai trò chủ yếu là Hồ Chí Minh, lãnh tụ của cách mạng, đã quyết định thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa, nghĩa là một nhà nước cộng hòa do nhân dân làm chủ. Để có một nhà nước cộng hòa do nhân dân làm chủ, phải thực hiện một số cuộc vận động và tiến hành một số hành động chính trị, theo cách thức và kinh nghiệm được thừa nhận ở các nước có mô hình này. Đó là: tổ chức tổng tuyển cử để bầu ra quốc hội lập hiến; Quốc hội lập hiến sẽ soạn thảo và thông qua hiến pháp, bầu ra chính phủ và giao cho chính phủ việc soạn thảo hiến pháp; sau khi có hiến pháp, sẽ tổ chức bầu nghị viện nhân dân và chính phủ trên cơ sở hiến pháp đã được quốc hội thông qua.

Trong tình hình lúc đó của đất nước, quyết định này là dũng cảm, thậm chí mạo hiểm, nhưng chỉ có như vậy mới thực hiện được mục tiêu xây dựng một chính thể cộng hòa dân chủ. Một nền cộng hòa như vậy sẽ đoàn kết được các tầng lớp quốc dân đồng bào, tranh thủ được sự công nhận của các nước, nhất là các nước thực dân, đế quốc đã và đang thống trị nước ta, và do đó có thể vừa giữ được độc lập, vừa tránh được chiến tranh, để tập trung đoàn kết dân tộc xây dựng một nước Việt Nam thịnh vượng. Một phương án khác là xây dựng chính quyền trên cơ sở liên kết với các lực lượng mà chỗ dựa của họ là Pháp hay Nhật. Điều này sẽ dẫn đến việc công nhận sự tiếp tục thống trị của các cường quốc thực dân đã xâm lược, đàn áp dã man các phong trào yêu nước của nhân dân ta, và bóc lột dân ta đến “tận xương tủy”. Hoặc, nếu hợp tác với các lực lượng thân Trung Hoa Tưởng Giới Thạch thì đồng nghĩa với việc rước sói vào thay cho hổ. Tổng tuyển cử sau khi cách mạng thắng lợi là bước đi cần thiết và cơ hội để đoạn tuyệt với quá khứ thực dân và khẳng định năng lực độc lập về chính trị của nhân dân Việt Nam có hàng ngàn năm văn hiến và không thiếu dũng khí tự bảo vệ nền độc lập của mình.

Thành quả quan trọng của tổng tuyển cử là tính chính danh của chính quyền cách mạng

Tổng tuyển cử, do đó, có một ý nghĩa quyết định đối với số phận của Chính phủ lâm thời của Việt Minh thành lập ngày 2.9.1945. Nếu Việt Minh giành thắng lợi qua tổng tuyển cử thì lực lượng này sẽ thành lập một nhà nước cộng hòa do dân bầu ra, sẽ lãnh đạo nhà nước này một cách chính danh trước quốc dân đồng bào và trước toàn thế giới, nhất là trước các nước đã và đang tiếp tục duy trì sự thống trị đối với Việt Nam như Pháp, Nhật và Trung Hoa Tưởng Giới Thạch. Biết được điều này, các đảng phái khác, đặc biệt là hai đảng Việt Quốc và Việt Cách, và một số đảng phái cực đoan khác, đã tìm mọi cách phá hoại tổng tuyển cử. Chẳng những kêu gọi tẩy chay, họ còn tổ chức khủng bố nhân dân và ứng cử viên. Lúc này, do Pháp đã chiếm lại Nam Bộ và Nam Trung Bộ, một số địa điểm bầu cử ở các khu vực này đã bị quân đội Pháp tấn công, làm nhiều người chết.

Về kết quả của tổng tuyển cử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời một nhà báo nước ngoài (16.7.1947) như sau: Quốc hội Việt Nam là do toàn dân đầu phiếu cử ra. Tất cả đàn ông và đàn bà 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử. Cuộc tuyển cử lần đầu ngày 6.1.1946, trung bình là 82% cử tri đã tham gia. Lúc đó có đại biểu của báo ngoại quốc đến xem. Trưởng ban Thường trực Quốc hội là cụ Nguyễn Văn Tố - một vị nho học lão thành, trước đã làm quan đến bậc-+ đại thần; Phó trưởng ban là một vị linh mục và một vị đảng viên Đảng Dân chủ. Chính phủ Việt Nam gồm có đại biểu các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ Việt Minh, Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, Quốc dân đảng, và nhiều vị không có đảng phái nào. Cố vấn tối cao của Chính phủ là Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại).

Phiên họp Quốc hội khóa 1 năm 1946. Ảnh TL

Tổng tuyển cử đã bầu ra Quốc hội. Đó là Quốc hội lập quốc, hội tụ đại biểu cả ba miền. Quốc hội đã có đại diện của tất cả thế hệ những người Việt Nam yêu nước đương thời. Quốc hội đã hội tụ đại biểu của tất cả các ngành, các giới, các giai cấp tầng lớp xã hội từ công nhân, nông dân, nam giới, nữ giới cho đến những nhà tư sản, công thương gia, những nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hoá nổi tiếng, các thành phần tôn giáo trên đất nước, các thành phần dân tộc, từ đa số đến thiểu số, của tất cả những người không đảng phái và các đảng phái chính trị như Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ, những đảng viên Xã hội, kể cả sự có mặt của Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại, người vừa mới tuyên bố thoái vị trước đó 4 tháng để làm công dân của nước Việt Nam tự do, và những người vốn là quan lại cao cấp của chế độ cũ như cựu thượng thư Bùi Bằng Đoàn.

Tổng tuyển cử thắng lợi mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ, và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến và kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thắng lợi của tổng tuyển cử, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong kỳ họp thứ nhất của Quốc hội đầu tiên, là “kết quả của sự hy sinh, tranh đấu của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta, sự đoàn kết của toàn thể đồng bào không kể già trẻ, lớn bé, gồm tất cả các tôn giáo, tất cả các dân tộc trên bờ cõi Việt Nam đoàn kết chặt chẽ thành một khối hy sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc” (lược trích: http://quochoi.vn/tulieuquochoi).

Tổng tuyển cử là nguồn sức mạnh chính trị và vật chất để kháng chiến chống Pháp thắng lợi

Với Chính phủ mới được quốc hội bầu ra, Mặt trận Việt Minh, là lực lượng có đủ tư cách và năng lực lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, từ nay đã có thể chính danh lãnh đạo đất nước bảo vệ nền độc lập non trẻ. Quốc hội do dân bầu đã có quyền ban bố luật pháp để quản lý đất nước, giữ gìn trật tự, trị an, buộc các thành viên Chính phủ, nhất là các đảng phái đối lập, phải tuân thủ luật pháp và chứng tỏ rằng họ tôn trọng các cam kết đoàn kết bảo vệ độc lập và xây dựng đất nước. Chính phủ Hồ Chí Minh cũng đã hoàn thành việc xây dựng chính quyền trung ương và cơ sở trên khắp ba miền đất nước, huy động đồng bào chống giặc đói và giặc dốt, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh để khôi phục kinh tế. Chính phủ Hồ Chí Minh đã có tư cách pháp lý để chính thức đàm phán ngoại giao với các quốc gia khác, kể cả Pháp, Nhật và Trung Hoa, và đã được các nước này công nhận. Đặc biệt, Chính phủ Hồ Chí Minh đã giành được thắng lợi ngoại giao to lớn vào năm 1950, khi được 9 nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, trong đó có hai cường quốc của Hội đồng Bảo an là Liên Xô và Trung Quốc.

Toàn bộ những hiệu ứng trên đây của cuộc tổng tuyển cử đã giúp củng cố chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững nền độc lập trong hòa bình suốt mười sáu tháng, tạo ra thế và lực cả về chính trị, tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến chống Pháp sau đó. Cũng trên tư thế chính danh và hợp pháp này, Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước đã phát động toàn quốc kháng chiến vào ngày 19.12.1946, được đại đa số nhân dân hưởng ứng. Chính phủ được bầu ra bởi Quốc hội 1946 đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thành công với trận Điện Biên Phủ, đồng thời chính thức ký Hiệp định Geneve. Tại Hội nghị này, ngày 20.7.1954, các nước tham gia hội nghị thông qua Bản tuyên bố chung thừa nhận: tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào, quy định quân đội Pháp phải rút khỏi các nước Đông Dương và ở mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.

Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã để lại nhiều bài học quý báu cho hôm nay, không chỉ về giá trị tư tưởng, mà còn về cách thức xây dựng và củng cố chính quyền, cách tổ chức bầu cử quốc hội, kỹ năng xây dựng hiến pháp và pháp luật, theo phương cách ở các nước phát triển lúc bấy giờ.Tuy nhiên, nếu có thể rút ra bài học lớn nhất thì, theo tôi, đó là: (1) Một đảng cầm quyền chân chính phải tuân thủ nguyên tắc “đất nước do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Điều 2, Khoản 2, Hiến pháp 2013); (2) Để thực hiện điều đó, phải thực sự tin dân, tạo điều kiện để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với nhà nước và phải có bầu cử tự do để người dân loại bỏ phường “sâu dân, mọt nước”, chọn lựa người tài đức đại diện cho mình, thông qua bầu cử tự do theo nguyên tắc “phổ thông, kín và trực tiếp”; (3) Khi đó, nhân dân sẽ đồng tâm và hết lòng xây dựng, ủng hộ và bảo vệ chính quyền, bởi chính quyền đó thực sự do chính nhân dân bầu ra.

Trương Trọng Nghĩa

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.