Đà Lạt cần nhìn ra những yếu tố ảnh hưởng đến giá trị, bản sắc của mình để khống chế và có giải pháp phát triển đúng như tiềm năng của đô thị này.
Từ ban sơ đến thời kỳ rực rỡ
Sự phát triển rực rỡ của Đà Lạt bắt đầu từ bản quy hoạch đầu tiên năm 1923 của KTS. Hébrard và hoàn chỉnh bằng bản quy hoạch lần hai của KTS. Lagisquet (dựa theo đề xuất quy hoạch chỉnh trang trước đó của KTS. Pineau) năm 1943. Từ 1943 đến 1975 là quá trình hoàn thiện giấc mơ Đà Lạt đúng theo hai đồ án quy hoạch trên.
Các công trình kiến trúc có định hướng quy hoạch nhưng lại rất sáng tạo, mỗi công trình là một tác phẩm kiến trúc có giá trị. Cả thành phố là bức tranh thành phố trong rừng và rừng trong thành phố. Những ngôi nhà có đỉnh mái không quá ngọn thông, tháp chuông Nhà thờ là điểm cao nhất để định hướng cảnh quan…
Tất cả nhìn về thung lũng, nhìn về hồ Xuân Hương và tất cả đều nhìn thấy đỉnh Lang Biang - tuân theo bản quy hoạch lần hai, đã xác định “vùng bất kiến tạo” để giữ được hướng nhìn lên đỉnh Lang Biang. Những giá trị tạo nên nét đặc trưng của Đà Lạt đúng là từ quy hoạch theo địa hình, quy hoạch từ một vùng đất trống nên dễ tạo được một tác phẩm lãng mạn thật sự.
Nói thêm về vị kiến trúc sư trẻ đang thành công ở châu Âu được cử sang Đông Dương rồi thành kiến trúc sư trưởng Đông Dương - Hébrard: ông được toàn quyền Paul Doumer giao nhiệm vụ thiết kế đô thị nghỉ dưỡng cho người Pháp. Với chức năng của đồ án thuần túy là nghỉ dưỡng mà lại trên thảo nguyên hoang sơ, chưa có nhà cửa, nên ngay từ đầu nó đã không bị bó buộc về thiết kế, về ý tưởng như Sài Gòn hay Hà Nội, Hải Phòng...
Đà Lạt ngày xưa được bao phủ bởi màu xanh của thông và các đồi cỏ. Ảnh: Bill Robie
Từ Hébrard đến Lagisquet là sự phát triển vừa kế thừa những giá trị của đồ án quy hoạch 1923, vừa thay đổi về quan điểm kiến trúc: không chỉ mang những công trình đẹp nhất của châu Âu tới cho Đà Lạt mà Đà Lạt cần có vẻ đẹp riêng. Chính vì vậy mà hàng loạt dinh thự, biệt thự đều có cách thiết kế nương theo địa hình, lấy cảm hứng từ địa hình, nhất là yếu tố mái dốc, sảnh đón, cửa sổ, ban công…
Các chi tiết trang trí, độ dốc, hình dáng mái đã tạo ra những tác phẩm kiến trúc như tranh vẽ ẩn hiện duyên dáng trong thiên nhiên. Mật độ xây dựng thấp, cây xanh nhiều giúp thành phố giữ được nhiệt độ, độ ẩm lý tưởng để nó luôn trong sương, đầy chất thơ. Vì điều kiện lý tưởng này mà Đà Lạt nhanh chóng nổi tiếng là đô thị nghỉ dưỡng kiểu mẫu của Đông Dương.
Sau khi Pháp rời Đông Dương, Đà Lạt chỉ còn vai trò một thành phố du lịch. Từ năm 1954 đến 1963, chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm có kế hoạch phát triển Đà Lạt khá quy mô, xây dựng các công trình văn hóa nghệ thuật, cơ sở hạ tầng đô thị được chỉnh trang, nâng cấp. Đà Lạt vẫn giữ nguyên định hướng phát triển du lịch và nông nghiệp.
Từ 1964 - 1975, dự án phát triển Đà Lạt thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng được tiến hành một thời gian ngắn thì gián đoạn. Tuy vậy, một số công trình dân sự cũng xuất hiện trong khoảng thời gian này. Du lịch thành phố thời kỳ này không còn nhộn nhịp do chiến tranh. Thành phố trở thành nơi nghỉ mát của giới thượng lưu và sĩ quan, quan chức có thế lực của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Các công trình thời kỳ này do các kiến trúc sư Việt Nam du học phương Tây về hoặc được đào tạo tại Đại học Kiến trúc Sài Gòn thiết kế. Kiến trúc hiện đại nhưng vẫn giữ nét riêng của đô thị nghỉ dưỡng với lối thiết kế phóng khoáng, dựa theo địa hình. Ở mức độ nào đó ta vẫn thấy nét tiếp biến từ kiến trúc Pháp.
Và bức tranh hỗn độn hôm nay
Đồ án quy hoạch của Lagisquet năm 1943 dự kiến mức tăng dân số của Đà Lạt khoảng 80 nghìn người. Cho đến năm 1975, dân số Đà Lạt phát triển đúng như quy hoạch. Từ năm 1975 đến nay, số dân tăng gấp 5,3 lần dự kiến tăng trưởng của bản quy hoạch: 425 nghìn người (năm 2020).
Năm 2014, bản quy hoạch chung xây dựng thành phố Đà Lạt và vùng phụ cận đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 704) có đề xuất đến việc phát triển ra bên ngoài, nhưng khi thực thi không đạt được. Hơn nữa trong bản quy hoạch này, Đà Lạt bị thêm rất nhiều gánh nặng: “Xây dựng Đà Lạt thành đô thị du lịch, văn hóa, khoa học, sinh thái, hiện đại, có đẳng cấp quốc gia và quốc tế...” (trích Quy hoạch chung Đà Lạt - Quyết định số 704). Trong khi bản thân Đà Lạt đang phải cố gắng giữ được tính chất của đô thị di sản, các công tác trùng tu, bảo tồn, phát huy giá trị di sản đòi hỏi rất nhiều công sức, gánh nặng này đương nhiên Đà Lạt khó kham nổi.
Đà Lạt cần một bản quy hoạch hiện đại giải quyết được nhiều vấn đề, từ kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, quy hoạch thoát nước. Trong bản quy hoạch này cần có riêng một quy hoạch di sản kiến trúc đô thị đi song song.
Áp lực dân số, sự mất kiểm soát về quản lý hoạt động xây cất nhà cửa, hoạt động bảo tồn manh mún, cầm chừng và đặc biệt là việc giao đơn vị tư nhân quy hoạch chi tiết với chất lượng thấp, các đồ án bị biến tướng so với quy hoạch chung là nguyên nhân dẫn đến sự xa dần mục tiêu ban đầu của các bản quy hoạch Đà Lạt trước đây. Đà Lạt bắt đầu trở thành mớ hỗn độn.
Từ một Đà Lạt mát lạnh, nay người ta dần thấy Đà Lạt nóng gần như Sài Gòn. Đà Lạt từ “phố trong rừng, rừng trong thành phố” đã trở thành một đô thị đầy kính và bê tông. Từ Đà Lạt với kiến trúc châu Âu và bản địa đặc thù trở thành một đô thị nhòe nhoẹt, giống bất cứ đô thị nào ở Việt Nam. Từ một Đà Lạt với những hồ, thác, suối Cam Ly trong vắt chảy qua, nay những con suối ô nhiễm, nặng mùi tới mức nhiều đoạn người dân phải tự lấp lại. Từ một Đà Lạt với thông và sương, nay những ngọn thông mất dần, mất rất nhanh và sương cũng biến mất từ sáng tinh mơ…
Mảng xanh sót lại trên đồi Dinh Tỉnh trưởng Đà Lạt chẳng biết còn giữ được bao lâu? Ảnh: Mai Vinh
Đà Lạt từng tự hào về những giá trị cảnh quan thiên nhiên và di sản kiến trúc, người Đà Lạt từng sống nhờ những giá trị đó. Nhưng bằng nhiều cách khác nhau, từng giá trị đã bị chết đi. Giá như - rất tiếc phải nói từ “giá như” - khi bắt đầu có những cuộc di dân lớn sau 1975, Đà Lạt có những bản quy hoạch vùng vệ tinh để ngăn chặn quá tải trung tâm di sản ngay từ đầu. Nếu có những vùng tuyệt đối cấm xây cao tầng, giữ mật độ xây dựng vừa phải để giữ linh hồn Đà Lạt thì không những ta có đô thị di sản130 tuổi mà còn có thể thêm một Đà Lạt thứ hai với tuổi 50, 30. Mỗi đô thị sẽ xây dựng theo một kịch bản riêng, giữ một nét riêng và kết nối với nhau để kéo dài thời gian của du khách lưu trú tại các vùng Đà Lạt.
Bước đi nào tiếp theo cho đà Lạt?
Đà Lạt cần tập trung vào vai trò cốt lõi: thành phố du lịch di sản, thành phố khoa học và nghệ thuật. Vai trò nông nghiệp cần được đẩy bớt cho Di Linh, Đức Trọng… để bao quanh Đà Lạt chỉ là thông và hoa. Như vậy sẽ không có cảnh nhà kính, cảnh bê tông bủa vây thành phố này. Cây cỏ sẽ giữ nước mưa chậm lại và thấm xuống để tránh những trận ngập lụt tồi tệ như ngày 1.9 vừa qua.
Đà Lạt cần một bản quy hoạch hiện đại giải quyết được nhiều vấn đề, từ kết cấu hạ tầng, chỉnh trang đô thị, quy hoạch thoát nước. Trong bản quy hoạch này cần có riêng một quy hoạch di sản kiến trúc đô thị đi song song. Muốn Đà Lạt phát triển bền vững thì phải giữ được di sản và các đặc thù mà ngay từ đầu các kiến trúc sư Pháp và sau này các kiến trúc sư Việt Nam trước 1975 đã thực hiện.
Trước mắt, một lần nữa Đà Lạt cần tập hợp các chuyên gia, thực sự lắng nghe ý kiến từ các nhà chiến lược, nhà quản lý, nhà chuyên môn (quy hoạch, kiến trúc, cảnh quan, hạ tầng, kinh tế, văn hóa…) và họ độc lập tham gia, không dưới tác động của một nhà đầu tư, của nhóm lợi ích nào. Hiện rất nhiều người trẻ từ Đà Lạt đi du học nhiều nơi nay quay về sinh sống, làm việc tại đây, là nguồn nhân lực rất mạnh về sáng tạo. Những nhà khoa học trẻ, nhà hoạt động nghệ thuật, các nghệ sĩ ngày càng muốn tới đóng góp cho Đà Lạt.
Nếu tập hợp được những nhân lực này và tạo cơ hội cho họ được trao đổi, đối thoại với chính quyền, tác giả bài viết tin rằng Đà Lạt sẽ tìm được hướng đi đúng đắn, phát triển thực sự, đó là phát triển đi đôi với bảo tồn các giá trị di sản, giữ bản sắc Đà Lạt.
PGS-TS-KTS. Nguyên Hạnh Nguyên - Trưởng Khoa Kiến trúc - Nội thất - Mỹ thuật ứng dụng, Đại học Nguyễn Tất Thành