Qua cầu ngả nón trông cầu...

 11:36 | Thứ hai, 19/05/2014  0

Năm tháng của thời thuộc địa Pháp đã lùi xa tít. Trong ký ức và tâm thức người Việt, có những vết đau thực dân kéo dài với nạn bóc lột tận xương tuỷ, đầy rẫy khổ ải, bất công. Nhưng, nhìn lại một thời đã qua, những dấu ấn của các giá trị văn hoá Pháp, dù ít ỏi cũng đã thành một phần của đất nước này. Chữ quốc ngữ và nghệ thuật kiến trúc là ví dụ.

Tây Nguyên, một vùng đất mà người Pháp từng mê hoặc.

Từ mê hoặc, họ đã tìm cách mở đường từ đồng bằng để chinh phục miền Thượng ở những thập niên đầu của thế kỷ trước. Những con đường thăm thẳm kia nay nền đường lẫn mặt đường đã đổi thay bao bận nữa, nhưng hơi thở thời quá vãng còn vương lại đây đó, giữa một Việt Nam, một Tây Nguyên chộn rộn ngày nay. Quá khứ ấy vương lại đâu? Vương xuyên suốt nhất là vào chính những cây cầu phong rêu kia. Buổi ấy rất nhiều cây cầu đã xuất hiện, có cây cầu đã đổ vì bom đạn chiến chinh và có những cây cầu vẫn còn đứng đó như một chứng nhân của lịch sử, một hoài niệm của xứ sở.

Chiếc cầu nào cũng bay bổng, mang đậm dấu ấn kiến trúc, có giai điệu, ý tứ, tư tưởng…

Chẳng hiểu sao, vào cái buổi đi lại khó khăn, vật liệu xây dựng khan hiếm, kỹ thuật còn trong giới hạn mà người ta làm cầu tỉ mẩn, chăm chút, cầu kỳ đến vậy. Đi khai thác thuộc địa thì đổ đại miếng bê tông bắc qua sông để chở tài nguyên về, hà cớ chi mà họ nắn nót từng cây cầu thế nhỉ! Chắc vì tính nghiêm túc, chuộng thẩm mỹ và cầu toàn, nên cây cầu nào xây cũng chu đáo, khiến cầu trở thành thi phẩm kiến trúc.

Tất nhiên tải trọng là cốt lõi hướng tính. Mà chẳng riêng tải trọng, những cây cầu cũ còn lại sừng sững trên đường 27, 20, 14, 19 kia…, cây nào cũng được thiết kế đầy đủ từ đế, trụ, thân, lòng, thành, mái, chỗ nghỉ chân, đường tản bộ, và đến cả chiếc bao lơn nhìn ra sông. Nào cầu Sông Pha, cầu Drann, cầu Nam Nhi, cầu Serépok, cầu Đại Lào... vắt qua những suối, sông hung dữ của miền Thượng.

Sông thượng nguồn bao giờ cũng cuồn cuộn, ngang tàng, lắm thác, lắm ghềnh, nhưng cầu thì chao ôi sao mà diễm lệ, mềm yếu, ngọt dịu như những dải lụa, hay cung nhạc thả lên trời cao nguyên miệt mài mưa, bao la nắng. Đến bây giờ nó vẫn cứ đong đưa theo sương giá, mặc kệ lịch sử, thời cuộc, chính trị. Nó cứ sống cái đời là... “tác phẩm cầu”. Bởi vì để đẻ ra nó, người ta tính tỉ lệ xích ở lòng đường với chiếc bao lơn của cầu. Người ta tính tỉ lệ xích của mái vòm lên trời với lòng cầu. Người ta tính hiệu quả thị giác.

Người ta tính đến tỉ lệ xích cảm xúc ở từng nhịp cầu. Vì thế chiếc cầu nào cũng bay bổng, mang đậm dấu ấn kiến trúc, có giai điệu, ý tứ, tư tưởng… Đã thế, nhưng không có cây cầu nào giống cây cầu nào cả. Mỗi cây cầu là một tác phẩm nghệ thuật. Họ không chấp nhận “nhân bản vô tính” cầu. Cứ như các kỹ sư cầu đường kia cũng là những kiến trúc sư, hay kỳ thực họ phối hợp cùng nhau để tạo ra tác phẩm đó.

Cầu là “tác phẩm” chứ không phải là công trình. Cầu như hình tượng những con sóng được “điêu khắc”. Cầu như những dải mây trời hoá thạch và ngừng bay. Cầu như những mảnh lụa bê tông che mát tha nhân qua cầu. Cầu như những khuôn nhạc giăng ra giữa trời và gảy lên những thanh âm của trí tuệ, sức người, tiền của. Cầu bỗng một ngày khiến người ta lao vào luận bàn như một thực thể văn hoá. Đó là một thứ dư vang của công trình giao thông.

Có những cây cầu sống trong lòng người cho tới lúc sắp về với đất"

Nhưng, “tiếp xúc” với những cây cầu “có kiến trúc” đó, tôi lại tiếc cho những cây cầu trên đất nước mình hôm nay, khi được xây dựng ở buổi thanh bình mà nghèo nàn kiến trúc, thậm chí không cần “kiến trúc”. Tôi tiếc cho tư duy làm cầu theo kiểu “nhân bản vô tính” vốn đang chế ngự, là nhận thức chủ đạo trong kiến thiết giao thông. Bây giờ xây dựng cầu nhiều ghê, ngày nào cũng xây, rộn rã, nơi nơi.

Từ xoá chiếc cầu khỉ con con cho đến những cây cầu dài vài cây số qua sông , qua đầm, qua vịnh. Việc cất cầu, làm đường kia là xây “hạ tầng cơ sở”. Không có cái “hạ tầng cơ sở” ấy không thể nối những bờ sông và những con đường đưa con người, hàng hoá đến mọi nơi để phát triển đất nước.

Ai chẳng rõ, làm cầu, tiền không có thì vay của nước ngoài: ODA đấy! Dân chở nông sản qua cầu vui, vì mau đến nhà, hàng đỡ héo. Nhưng dù thờ ơ đến mấy cũng biết tiền làm cầu kia vay thì phải trả, chứ tiền thuế của dân nước khác cũng không thể cho không một nước nào. Không có “triết lý” cho cầu đường nên cầu giờ cứ “xoáy” gọn ở mục tiêu giao thông. Nhiều nơi cầu như những “mặt phẳng” bắc qua hai bờ sông.

Cầu mới làm khá nhanh, bề ngoài trông hiện đại, to, khoẻ, chịu tải trọng lớn, kỹ thuật cao. Cầu nhiều, nhưng hàm lượng kiến trúc, mỹ thuật và văn hoá dường như không tỷ lệ thuận với số lượng. Nhiều nơi, chiếc cầu mới to khoẻ như anh hộ pháp, rất võ biền, đứng bên cây cầu cũ thanh lịch, tỉ mẫn, cầu kỳ. Nay tư duy cầu “mái bằng” chế ngự khắp núi khắp sông, bê tông cốt thép phẳng lỳ, lù lù nối bờ này với bờ kia với vẻ vô cảm. May thay có đôi ba cây cầu do nước bạn nào đó lo trọn gói lập dự án, thiết kế, thi công thì lại "có kiến trúc”.

Có kiến trúc là cây cầu đẹp và có hồn, người đi trên những cây cầu đẹp ấy thấy lòng thơ thới. Không phải bỗng dưng người ta nói "có những cây cầu để đi và có những cây cầu để đi rồi nhớ". Một cây cầu gỗ thời nghèo khó nhưng gắn chặt với ký ức hàn vi và lãng mạn. Một cây cầu thời tiền của đã nhiều hơn nên đâu chỉ cần hiện đại mà cần đẹp nữa, để không chỉ làm rung động những người đi qua nó hôm nay mà còn rung động được thế hệ mới sẽ đi qua nó.

Có những cây cầu thiên hạ muốn làm thơ, và những cây cầu ngồi trên xe hành khách không biết nó “là cầu”, bởi chỉ là con đường nhựa nối dài qua sông. Có những cây cầu sống trong lòng người cho tới lúc sắp về với đất, nhưng cũng có thứ cầu chỉ “sống” được cuộc đời giao thông. Có những cây cầu vừa xây xong đã “chết”, về mặt tinh thần, lại có những cầu cầu để vĩnh cửu, thương yêu. Có lẽ vì vậy nên trên thế gian mới có chuyện cầu ăn xổi và cầu… văn hoá.

Cầu Nam Nhi - ở xã Hà Lâm, huyện Đạ Hoai, Lâm Đồng. Quốc lộ 20 từng qua cây cầu này, nhưng do nắn đường nên nay nó lọt trong vườn cây cận đấy.

Rốt lại câu chuyện về những nhịp cầu có lẽ chỉ là thế này thôi: cần kết hợp nhiều mục đích, tích hợp nhiều giá trị khi làm một cây cầu, thì cầu mới “sống” được lâu vì tạo được cảm xúc cho bá tánh khi đi lại. Cơ hội làm cầu cũng là cơ hội tạo ra văn hoá. Phải khó tính hơn khi làm cầu. Phải sâu sắc hơn khi làm cầu. “Nhân bản vô tính” cầu âu cũng là một sự lãng phí…

Và những cây cầu lên miền Thượng thời Pháp thuộc phải chăng là một bức tranh sống động về triết lý làm cầu. Kiến trúc cho cầu được coi trọng nên khi cầu đã “già”, về “hưu”, nhưng vẫn cứ sống. Những cây cầu như thế đứng đó như những di sản của thời cuộc, đường đường có cuộc đời riêng, ngạo nghễ với gió sương, và thậm chí gợi ý rằng tạo ra hạnh phúc cho dân chúng đầy đủ là phải phấn đấu tạo ra những giá trị vượt trên cái bao tử.

Qua cầu ngả nón trông cầu, khác với qua cầu nhanh cho tới phố, tới chợ, tới nhà, tới quán nhậu, tới nhà thương, tới toà án... Việc làm cầu, nó cũng thử thách “tầm nhìn văn hoá" của các nhà quản trị xã hội là vì vậy...

Nguyễn Hàng Tình

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

#đường ven biển Thủ tướng
*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.