TS Nguyễn Tiến Dũng: sinh viên cần tự do tư tưởng trong học thuật

 05:07 | Thứ ba, 17/06/2014  0

Nhiều nhà tuyển dụng là các doanh nghiệp lớn của Việt Nam hay các công ty nước ngoài đều than phiền sinh viên Việt Nam kém cả kiến văn lẫn kỹ năng. Là người sống và giảng dạy ở một môi trường đại học khá lý tưởng của Pháp, có điều kiện tiếp cận sinh viên Việt Nam, ông nghĩ gì về nhận xét này?

Theo tôi được biết, sinh viên ở Việt Nam khá phí phạm thời gian trong mấy năm học đại học, không học được nhiều về chuyên môn. Một người bạn tôi hàng năm phải phỏng vấn tuyển việc hàng trăm sinh viên ngành điện tử viễn thông từ những trường được coi là tốt nhất ở Việt Nam, cho biết số sinh viên tốt nghiệp loại giỏi vẫn bị hổng quá nhiều về kiến thức cơ bản. Ngành toán của tôi cũng tương tự. Khi các bạn học xong đại học bốn năm ở Việt Nam sang Toulouse học lại năm thứ 4 (gọi là master 1) vẫn kêu chương trình ở Toulouse quá khó. Vấn đề không phải là chương trình của Toulouse khó so với mặt bằng chung của châu Âu, mà là các bạn được chuẩn bị kiến thức quá hạn chế khi học đại học ở Việt Nam.

Theo ông, vì sao lại có tình trạng này?

Tôi thấy có nhiều nguyên nhân. Chẳng hạn “đầu vào thì khó nhưng đầu ra dễ”: ở phổ thông, sự cạnh tranh để vào đại học rất cao, nhưng khi vào đại học rồi thì không còn cạnh tranh về kiến thức nữa. Bằng cấp và điểm số chỉ là hình thức, còn khi đi xin việc lại cần quan hệ, chạy chọt hơn là kiến thức. Tình trạng sính bằng cấp ở Việt Nam dẫn đến nhiều chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ được mở ra với chất lượng không đảm bảo, như thể cứ đóng tiền… là thành thạc sĩ.

Chương trình học quá nhiều môn không cần thiết chiếm thời giờ của các môn quan trọng hơn. Có những môn thậm chí ít tính khoa học, không kể các môn xã hội học có tính gượng ép, ngay cả môn liên quan đến chuyên môn cũng vậy. Lấy một ví dụ là môn “phương pháp nghiên cứu khoa học”. Ở các nước tiên tiến, người ta cho sinh viên tập nghiên cứu bằng cách thực tập những đề tài khoa học hay ho, với những nhà khoa học thực thụ, có công trình công bố quốc tế hướng dẫn. Còn ở Việt Nam, học môn “nghiên cứu khoa học” là “học chay”, và bản thân người dạy, phần lớn cũng chưa từng nghiên cứu ra kết quả khoa học có công bố quốc tế nào.

Kiểu học vẹt và nhồi nhét ở phổ thông làm cho các bạn trẻ bị giảm sút nhiều khả năng tư duy chủ động, độc lập, sáng tạo, trực giác và đi vào bản chất vấn đề - những đức tính rất cần thiết để phát triển tốt ở bậc đại học hoặc cao hơn nữa. Nếu ở đại học cũng học vẹt thôi thì “kiến thức giảng đường” chỉ là một mớ giáo điều lộn xộn không áp dụng được.

Nhưng đó đâu phải là lỗi của sinh viên, thưa ông?

Điều kiện giảng dạy còn thiếu thốn, giảng viên trình độ còn khiêm tốn và luôn bị quá tải, dạy quá nhiều giờ, dẫn đến chất lượng giảng dạy chưa được cao. Một giảng viên đại học ở Việt Nam có khi phải dạy đến 1.000 tiết/năm, gấp 5-7 lần mức trung bình của thế giới. Thu nhập chính thức của giảng viên đại học, kể cả các giáo sư tiến sĩ, quá thấp, khiến họ phải dạy thêm hoặc làm các thứ “tay trái” quá nhiều, mất tập trung vào việc nghiên cứu và đào tạo chính thức. Họ ít có thời gian cập nhật kiến thức, nên khó thay đổi chương trình và cách dạy cho phù hợp với nhu cầu hiện tại. Và hậu quả là sinh viên phải gánh tất cả hậu quả. Người ta nói không sai rằng người thầy thế nào thì sinh viên thế ấy…

Tham gia nghiên cứu khoa học, những cuộc thi về sáng chế cũng là cách tự họ hiệu quả cho sinh viên. Ảnh: Trung Dũng

Vậy theo ông, để nâng cao chất lượng đại học, mà cụ thể là chất lượng sinh viên, phải bắt đầu từ đâu và như thế nào?

Cải tổ đại học một cách cơ bản là một vấn đề rất khó, đòi hỏi thay đổi rất nhiều thứ, trong đó có cả quan niệm của chính đội ngũ giảng viên. Bởi vậy, cần phải có cả một chương trình thay đổi dài hạn, với các biện pháp và hướng đi đúng đắn, thì may ra sau nhiều năm sau mới thấy chuyển biến trong chất lượng sinh viên ra trường.

Tôi đã nhiều lần kiến nghị về việc cần thay đổi cách tính thu nhập cho giảng viên đại học. Mức thu nhập chính thức quá thấp và kiểu “lương ít bổng nhiều” luôn là một cản trở lớn cho việc khuyến khích mọi người làm việc nghiêm túc và thu hút người giỏi.

Một việc khác cần thay đổi là cách quản lý đại học và cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo đai học. Sau hơn 10 năm của thế kỷ 21 rồi, mà Việt Nam vẫn còn quá nặng nề về mặt lý lịch khi bổ nhiệm các cấp lãnh đạo, thì tất nhiên sẽ loại ra rất nhiều người tốt có trình độ cao, khiến họ không có điều kiện đóng góp một cách hiệu quả trong việc xây dựng các trường đại học. Chưa kể nạn tham nhũng và gian lận quá lớn, là vấn nạn của không chỉ riêng ngành đại học, gần như vô phương cứu chữa tại thời điểm hiện tại. Muốn chữa nạn tham nhũng, thì ngay từ bộ luật tối cao là Hiến pháp phải được viết sao cho có được cơ chế kiểm soát quyền lực theo kiểu “tam quyền phân lập” đàng hoàng, may ra mới chống được lạm quyền và tham nhũng.

Ngoài ra còn rất nhiều điều cần thay đổi. Nói riêng về tự chủ đại học, như tôi từng phát biểu, tự chủ đại học là hướng đi đúng đắn, nhưng không nên nhầm lẫn tự chủ hoá với thương mại hoá. Tự chủ đại học ở Việt Nam có thể là một biện pháp nằm nâng cao hiệu quả và sự minh bạch của các đại học, trả thu nhập xứng đáng hơn cho giảng viên, v.v. Các đại học lớn ở các nước tiên tiến thường có quyền tự chủ rất cao. Thậm chí việc tự chủ này còn được ghi vào hiến pháp. Nhưng có một xu hướng nguy hiểm rình rập Việt Nam là xu hướng nhập nhèm biến tự chủ hoá hay “xã hội hoá” thành thương mại hoá các trường công lập: khi đó các trường này, vốn là tài sản của toàn xã hội, đem lại lợi ích cho toàn xã hội, biến thành tài sản của tư nhân đem lại lợi ích chủ yếu cho một nhóm thiểu số người giàu.

Ở các trường đại học tiên tiến, các giáo sư thường có quyền tự chủ cao, không bị ép buộc dạy y theo một khung chương trình chi tiết nào, một giáo án có sẵn nào, một kiểu dạy cố định nào, mà có thể linh hoạt đưa vào bài giảng những cái mình thích, dạy theo lối mình thích, miễn sao nghiêm túc và truyền đạt được kiến thức cho sinh viên. Giờ giấc cũng linh hoạt, để các giáo sư khi bận dự hội nghị khoa học, công tác, họp hành... có thể dịch chuyển thời gian dạy sau khi thỏa thuận với sinh viên. Bản thân các môn học cũng linh hoạt, có thể thay đổi theo năm. Sự linh hoạt này tất nhiên cao hơn nhiều so với ở các trường phổ thông, và cần thiết để giáo sư giới thiệu cho sinh viên những kiến thức mới nhất. Tôi nghĩ chất lượng sinh viên bắt nguồn từ sự năng động ấy của đội ngũ giảng viên đại học.

Nhưng người ta hay tự hào rằng trẻ em Việt Nam thông minh chẳng thua kém ai, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế…

Nếu so sánh trẻ em Việt Nam với trẻ em các nước tiên tiến, tôi nghĩ trẻ em Việt Nam phải học quá nhiều, học cho đến mụ mẫm, mất ăn mất ngủ, nhưng kiến thức thực sự có được vẫn thua trẻ em nước ngoài. Kiểu học vẹt và nhồi nhét rất phản tác dụng. Ý kiến “giáo dục Việt Nam nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người” tôi e rằng không đúng.

Về vế dạy chữ, không phải là “nặng” (nếu “nặng” thì phải đem lại nhiều “chữ”) mà là nhồi nhét kiểu học nhiều mà hiểu ít, hình thức, giáo điều. Còn về vế “nhẹ về dạy người”: đúng là có nhiều kiến thức xã hội phục vụ cuộc sống mà trẻ em còn chưa được học ở trường, ví dụ như pháp luật hay triết học (triết học đúng nghĩa, chứ không chỉ đơn giản hoá thành một “tư tưởng chủ đạo”), là những nội dung học sinh nước ngoài được học đầy đủ để hình thành một phương pháp tư duy. Ngay lịch sử, môn quan trọng giúp tăng hiểu biết về lịch sử phát triển của xã hội loài người hay lịch sử dân tộc, cũng bị biến thoái. Riêng về tính cách con người, trẻ em học trước hết là qua các “bài học thực hành” trong cư xử hàng ngày chứ không phải qua các bài mẫu trong sách vở. Nếu như chỉ học được ít nhưng học đúng thì không sao. Nguy hiểm hơn là khi trẻ bị “học sai” về cư xử thế nào là tốt. Chẳng hạn, khi thầy cô cũng khuyến khích trẻ khai gian để lập thành thích, thì như thế không còn là “nhẹ về dạy người” mà là “sai về dạy người”. Công bằng mà nói, tôi vẫn thấy có nhiều giáo viên rất mô phạm, rất đàng hoàng và yêu thương trẻ, dạy được cho trẻ các đức tính tốt.

Nói về mục đích của giáo dục, theo tôi thì như Epictetus có nói “chỉ người có học mới tự do”, mục đích cao cả nhất của giáo dục chính là để giúp con người đạt đến tự do. Sự tự do dựa trên hiểu biết chứa cả đạo đức trong đó.

Ông nhìn thấy lớp trẻ, nhất là sinh viên Việt Nam, có tư duy tự do và tự chủ trong cuộc sống? Giáo dục đại học Việt Nam có tạo ra được các thế hệ sinh viên có bản lĩnh như vậy?

Nếu không có được sự tự do tư tưởng thì học thuật sẽ như thiếu khí để thở, khó mà phát triển. Bởi vậy câu hỏi cần đặt ra có lẽ là “phải cải cách giáo dục đại học thế nào để đạt được tự do tư tưởng trong học thuật”.

Đối với những người nghiên cứu các vấn đề ảnh hưởng lớn đến xã hội (như an toàn thực phẩm, hay liên quan tới những dự án tỷ đô, những đường lối chính sách lớn...), thì đây là vấn đề nan giải, vì rất có thể các kết luận đúng đắn của các nghiên cứu rất nghiêm túc sẽ lại bị xếp xó, không được công bố. Chỉ có những đề tài “vô thưởng vô phạt”, chẳng ảnh hưởng đến ai, là được tự do phát biểu. Chính vì vậy, vai trò đóng góp và phản biện của các nhà khoa học cho xã hội bị cản trở, tôi không nhìn thấy rõ trong các thế hệ sinh viên (tất nhiên cũng có những cá biệt) phẩm chất này.

Ông Sugata Mitra (một chuyên gia nổi tiếng thế giới về giáo dục học hiện tại) có nói, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của người thầy là khơi dậy sự quan tâm, tò mò về vấn đề muốn dạy đối với học sinh (when there is interest, there is education). Khi học sinh có được sự quan tâm, tò mò đó thì sẽ tập trung, ham thích tìm hiểu nó, “học mà như chơi”, và như thế học sẽ hiệu quả, nhanh vào. Còn nếu bắt học sinh học vẹt, nhồi nhét, không hứng thú, thì sau khi thi xong chữ thầy sẽ lại trả thầy.

Chấm dứt tình trạng này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng đầu ra của sinh viên đại học Việt Nam là câu chuyện rất dài, và chúng ta phải bắt đầu từ bậc thang thứ nhất…

Minh Nguyễn  thực hiện

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.