Liệu bài học về lộ trình cấm xe máy của Quảng Châu (Trung Quốc) có phù hợp cho các đô thị lớn của Việt Nam như Hà Nội và TP.HCM hiện nay?
Ý tưởng “Cần có lộ trình cấm xe máy ở các đô thị lớn” nhận được sự đồng tình của nhiều người với điều kiện phải có một lộ trình cụ thể, rõ ràng, khả thi. Lộ trình đấy là gì thì dường như chưa ai có thể trả lời ngay được. Tuy nhiên, một trong những căn cứ mạnh mẽ để ủng hộ cho đề xuất này là sự thành công của Quảng Châu (Trung Quốc) trong việc này.
Quảng Châu và Hà Nội: một vài con số so sánh
Thành phố Quảng Châu (Trung Quốc) đã rất thành công trong việc cấm hoàn toàn xe máy đi lại tại thành phố từ năm 2007. Theo VTC News, để thực hiện thành công quyết định này, thành phố Quảng Châu đã xây dựng một lộ trình dài hơi 10 năm, bắt đầu từ năm 1997 đến năm 2007. Hãy làm một so sánh nho nhỏ giữa thành phố Quảng Châu và Việt Nam để có thể hình dung nếu Việt Nam áp dụng mô hình này cho các đô thị lớn của mình thì điều gì sẽ xảy ra.
Năm 1998, Quảng Châu có tổng dân số là 8,1 triệu người và tổng diện tích vào khoảng 7.434 km2. Trong khi đó, Hà Nội năm 2012 có tổng dân số là 6,9 triệu người, thấp hơn gần 1,2 triệu người so với Quảng Châu năm 1998. Tuy nhiên, tổng diện tích của Hà Nội chỉ là 3.328,9 km2, bằng 2/5 so với Quảng Châu. Điều này có nghĩa là mật độ dân số của Hà Nội cao hơn đáng kể so với Quảng Châu và đây sẽ là một trở ngại đáng kể cho lộ trình cấm xe máy nếu điều đó được áp dụng ở Hà Nội.
|
Để có thể cấm xe máy, một trong những yêu cầu quan trọng là phải xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông công cộng phù hợp để giúp người dân thay thể xe máy. Hãy xem Quảng Châu đã làm được những gì cho hệ thống giao thông công cộng để lộ trình cấm xe máy của họ thành công.
Nhìn vào bảng so sánh giữa hệ thống giao thông công cộng tại Quảng Châu và Hà Nội, ta có thể thấy Hà Nội sẽ cần phải nỗ lực và làm rất nhiều mới có thể biến mình thành một thành phố vắng bóng xe máy như Quảng Châu. Ngay cả với những người lạc quan nhất thì câu trả lời cho lộ trình này ít nhất cũng phải là 20 – 25 năm.
Nguy cơ đẽo cày giữa đường
Có hai vấn đề liên quan đến xe cá nhân cần phải giải quyết nếu Việt Nam muốn tiến hành cấm xe máy tại các đô thị lớn. Thứ nhất là vấn đề quyền sở hữu tài sản và thứ hai là vấn đề thay thế phương tiện cá nhân này bằng phương tiện cá nhân khác.
Xe máy là một loại tài sản và rõ ràng là người dân có quyền sở hữu. Việc cấm xe máy di chuyển trên đường vô hình chung hạn chế quyền sở hữu tài sản của người dân. Hơn nữa, hiện tại với nhiều gia đình Việt Nam, xe máy là một gia tài không nhỏ. Ngay cả khi có lộ trình lên tới 10-20 năm thì một quyết định như thế sẽ khiến cho một lượng tài sản đáng kể của người dân trở nên vô giá trị. Làm thế nào để giúp cho người dân giảm thiểu thiệt hại khi lệnh cầm được ban hành là điều mà các cơ quan chính quyền cần phải tính đến.
Một vấn đề khác liên quan đến việc cấm xe máy là loại phương tiện cá nhân thay thế khác. Dù phương tiện giao thông công cộng có phát triển thế nào thì từ kinh nghiệm trên thế giới cũng chỉ có thể giải quyết được khoảng 20-30% nhu cầu đi lại của người dân. Hiện tại, hệ thống giao thông công cộng của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 5-7% nhu cầu đi lại tại các thành phố lớn. Như vậy, ngay cả khi các thành phố lớn như Hà Nội và TP.HCM có cải thiện các hệ thống giao thông công cộng đáp ứng được nhiều nhu cầu hơn thì người dân vẫn sẽ phải chuyển từ sở hữu xe máy sang sở hữu ôtô.
Do vậy, bài toán hạn chế xe máy tại các đô thị lớn sẽ cần phải đặt song hành với bài toán thay thế xe cộ cá nhân là xe máy sang ôtô. Nhưng với hiện trạng cơ sở hạ tầng của hai thành phố Hà Nội và TP.HCM như hiện tại thì việc nhanh chóng thay thế phương tiện cá nhân từ xe máy sang ôtô sẽ khiến cho vấn nạn tắc đường hiện tại trở nên trầm trọng hơn.
Điều này có nghĩa là “lộ trình cấm xe máy” cần phải trả lời câu hỏi: liệu các thành phố lớn có chuẩn bị được cơ sở hạ tầng để đáp ứng được lưu lượng xe ôtô cá nhân lớn như vậy hay không? Các đô thị lớn sẽ cần phải xây dựng một giải pháp đồng bộ về cơ sở hạ tầng như đẩy nhanh tiến độ di dời trường học, bệnh viện và cơ quan hành chính nhà nước ra ngoại ô, mở rộng đường xá, phát triển hệ thống giao thông công cộng v.v...
Như vậy việc cấm xe máy sẽ có thể khiến cho cả người dân chịu phí tổn về tài sản khi xe máy mà họ sở hữu không còn tính năng sử dụng và nhà nước phải bỏ ra rất nhiều chi phí để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ. Với tình hình ngân sách eo hẹp như của Việt Nam và với khả năng giải toả mặt bằng rất khó khăn như hiện tại thì nguy cơ “đẽo cày giữa đường” của lộ trình cấm xe máy sẽ là rất lớn. Đây là tính thế tiến thoái lưỡng nan mà các cơ quan hữu trách phải cân nhắc kỹ lưỡng khi muốn theo đuổi đề án này.
Thiên Trường - Nguyễn Bích Thuận