Bóng ma Minh Phụng
Trở lại hơn 20 năm trước khi hai công ty Minh Phụng và Huy Hoàng cùng bước vào kinh doanh bất động sản bằng cách vay nợ ngân hàng. Năm năm sau, cả hai cùng trả giá vì thị trường đóng băng. Đến đây, thân phận của hai ông chủ đã rẽ theo hai hướng trái ngược nhau.
Sau khi bị khởi tố, tài sản của Tăng Minh Phụng được thống kê gồm gần 400 danh mục và 476 cơ sở sản xuất với khoảng 9 triệu m2 đất các loại. Khối tài sản khổng lồ được các cơ quan tố tụng đơn giản “quy” ra một số tiền mặt cụ thể để cấn trừ nợ. Các yếu tố biến động về giá trị, tài sản trong mối quan hệ thị trường, giá trị về khai thác, sử dụng và các giá trị gia tăng khác… đã không được tính đến.
Tại phiên xử, một luật sư bào chữa cho Tăng Minh Phụng đã bật khóc khi nghe kết quả thẩm định giá tài sản, vì “mỗi mét vuông đất của Tăng Minh Phụng chỉ có giá bằng ba que kem”. Sự chênh lệch quá lớn sau khi lấy tổng tài sản trừ đi tổng nợ là một nguyên nhân khiến Tăng Minh Phụng phải nhận mức án cao nhất.
"Nhìn ở góc độ pháp luật, điều dễ thấy là đã có hai cách hành xử khác nhau ở hai vụ việc có tính chất tương tự"
Người chủ của công ty Huy Hoàng thì khác, cũng với những khoản tiền nợ ngân hàng hơn một ngàn tỷ đồng không thể trả, nhưng ông không bị khởi tố. Ông được cho phép giãn nợ, hoãn nợ trong ba năm để ổn định sản xuất, khắc phục hậu quả. Chỉ sau vài năm, giá bất động sản tăng vùn vụt, cùng một vị trí, đất Minh Phụng mấy năm trước chỉ đáng giá que kem thì nay, đất của Huy Hoàng giá hàng chục cây vàng. Huy Hoàng trả hết nợ nần, thành doanh nghiệp điển hình, tiên tiến.
Nhìn ở góc độ pháp luật, điều dễ thấy là đã có hai cách hành xử khác nhau ở hai vụ việc có tính chất tương tự. Với Huy Hoàng, một giải pháp hợp lý, đã tỏ ra rất hiệu quả, không chỉ thu hồi đủ nợ mà còn tránh phải xử lý vụ việc theo trình tự tố tụng, ngăn ngừa những tác động xấu về kinh tế – xã hội có thể xảy ra nếu phải xử lý vụ việc theo hướng hình sự hóa. Cái được là vừa tránh thất thoát tiền nhà nước, vừa giữ được công ăn việc làm cho người lao động và cứu doanh nghiệp khỏi phá sản.
Với Minh Phụng, hình như các cơ quan tố tụng mới chỉ tập trung vào việc xử lý sao cho thật nghiêm về hình sự đối với các cá nhân và giải quyết việc thu hồi nợ của các ngân hàng. Các can thiệp của nhà nước bằng biện pháp, công cụ kinh tế như khoanh nợ, giãn nợ, áp dụng các giải pháp đặc biệt tạo điều kiện làm sao để doanh nghiệp của bị can, bị cáo khôi phục kinh doanh hầu như không có. Nếu có cơ chế giúp các doanh nghiệp xử lý rủi ro, có sự can thiệp kịp thời bằng các công cụ pháp lý và kinh tế, có lẽ sự thiệt hại và tác động xấu về kinh tế – xã hội sẽ được giảm thiểu tối đa, đồng thời việc thu hồi nợ có hiệu quả hơn.
Nhưng bài học đắt giá qua vụ án này không chỉ dừng lại ở vai trò việc can thiệp của nhà nước, ở phạm vi hẹp hơn, việc hiểu và áp dụng pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án kinh tế lớn.
Khoảng vênh
Trở lại hai vụ đại án kinh tế Huyền Như và bầu Kiên, từ sự hiểu đến áp dụng thống nhất pháp luật vẫn còn là một khoảng vênh lớn từ các phía: cơ quan tố tụng và người tham gia tố tụng.
Xuyên suốt vụ án Huyền Như, có hai quan điểm trái ngược nhau trong phần dân sự. Phía công tố, đứng trên lợi ích của nhà nước, quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Huyền Như, quan điểm này được tòa đồng ý. Ngược lại, đứng trên quan điểm của người bị thiệt hại, phía luật sư yêu cầu Vietinbank phải có trách nhiệm bồi thường. Vấn đề đặt ra là tại sao một vụ việc lại có hai cách đánh giá, nhìn nhận khác biệt đến mức trái ngược nhau.
Theo luật sư Trần Hồng Phong (đoàn luật sư TP.HCM), bản chất vụ Huyền Như liệu chừng có khó hiểu, phức tạp đến mức các bên hiểu ngược 180 độ hay các quy định mù mờ, chung chung để hiểu thế nào cũng được? Trong phần tranh tụng, phía công tố tránh né những đòi hỏi của luật sư bằng cách từ bỏ quyền tranh luận, nên phần quan trọng làm sáng tỏ vụ án đã diễn ra theo kiểu “ông nói gà, bà nói vịt”. Cuối cùng tòa án đã không làm được điều dư luận mong muốn: công bằng, khách quan.
Luật pháp thành “giáo trình” kinh tế
Ở một góc độ khác, luật sư Trịnh Thanh (đoàn luật sư Bà Rịa – Vũng Tàu) nhìn nhận, ngay từ khi áp dụng, pháp luật đã luôn rớt nhịp so với môi trường, khả năng kinh doanh. Lấy ví dụ từ hai tội danh “cố ý làm trái” và “kinh doanh trái phép” (thuộc nhóm tội phạm về kinh tế) theo luật sư Trịnh Thanh, những tội danh này từ khi bộ luật Hình sự ra đời (năm 1985) đến nay không hề thay đổi, cho dù nền kinh tế đã chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, đồng thời khái niệm phân biệt “sở hữu nhà nước – sở hữu tư nhân” đã bỏ từ lâu.
Có một mâu thuẫn cố hữu – theo luật sư Trịnh Thanh – đó là môi trường kinh doanh sáng tạo với những ràng buộc của pháp luật, tồn tại hàng chục năm mà chưa được cởi bỏ. Có bắt buộc nhà nước cứ phải “xông vào” xử lý câu chuyện như của ngân hàng ACB trong vụ bầu Kiên?
Trong khi, cổ đông của ACB có đủ quyền (phế truất, khởi kiện…) để xử lý những lãnh đạo ngân hàng này khi gây thiệt hại, thất thoát đồng vốn của họ. Bây giờ nếu vẫn còn xem xét các hành vi “trái” theo kiểu cũ, không cần xét đến động cơ, mục đích kinh doanh và các yếu tố khác thì luật pháp phải xem lại. Bởi khi đó, các quy luật kinh tế bị hành chính hóa, hình sự hóa, luật pháp trở thành mệnh lệnh mà không làm bà đỡ cho doanh nghiệp, môi trường kinh doanh. Hậu quả, triệt tiêu khả năng sáng tạo, đánh mất cơ hội.
Với không gian kinh doanh, pháp luật không thể đóng gói, đóng khung thành giáo trình, vượt ra ngoài khung đó sẽ bị xử lý. Quy định “chỉ được làm những gì luật cho phép” được hiểu chỉ áp dụng trong quan hệ hành chính đối với cán bộ công chức, nhưng không thể áp dụng trong quan hệ kinh tế.
Nếu bây giờ còn buộc các quy luật kinh tế phải đi theo pháp luật, điều mà pháp luật đáng ra phải đuổi theo, tư duy như vậy sẽ giết chết môi trường, không gian kinh doanh. Điều nguy hiểm hơn, khi các quan hệ kinh tế, dân sự bị hình sự hóa, người chủ của doanh nghiệp sẽ mất cơ hội sửa chữa, khắc phục những thiệt hại mà họ gây ra.
Vĩnh Hòa