Đây là nhận định tại báo cáo thường niên kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (Đại học Fulbright Việt Nam) thực hiện.
Theo giới thiệu của TS Vũ Thành Tự Anh, Trưởng nhóm nghiên cứu, đây là bản báo cáo kinh tế thường niên đầu tiên cho vùng ĐBSCL, cũng là bản báo cáo kinh tế vùng toàn diện đầu tiên trong cả nước.
Tốc độ phát triển chậm lại
Theo báo cáo này, sau hơn ba thập kỷ kể từ đổi mới, mặc dù ĐBSCL đã thành công trong việc thoát đói, giảm nghèo, nhưng vùng đất này vẫn chưa đem lại được sự thịnh vượng cho phần lớn người dân của mình.
Bằng chứng là tốc độ phát triển của vùng đã chậm lại một cách đáng kể, mức sống của người dân thấp hơn mức trung bình của cả nước, và ĐBSCL ngày càng tụt hậu về hầu hết các khía cạnh phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò kinh tế của ĐBSCL cũng đang giảm dần so với các vùng khác trong cả nước. Mặc dù có lợi thế nằm ngay sát TP.HCM và vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ năng động và phát triển, song dường như ĐBSCL không được hưởng lợi đáng kể từ sự kết nối này, không những thế còn ngày một tụt hậu.
Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với hàng loạt thách thức.
Một nguyên nhân quan trọng khiến tăng trưởng GDP của ĐBSCL thấp hơn TP.HCM và Đông Nam Bộ là do ĐBSCL được giao sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước, vì vậy phải tập trung vào nông nghiệp và sản xuất lúa gạo, và kết quả là chậm chuyển dịch sang các ngành có năng suất cao hơn.
Sự chênh lệch về mức sống và thiếu cơ hội kinh tế là hai nguyên nhân quan trọng thúc đẩy tình trạng di cư của người dân đồng bằng về TP.HCM và miền Đông Nam Bộ.
Kết quả là so với các vùng khác trong cả nước, ĐBSCL có tỷ lệ nhập cư thấp nhất, tỷ lệ xuất cư cao nhất, và do đó là vùng duy nhất có tỷ lệ tăng dân số là 0,0% trong giai đoạn 2009-2019.
Một thành tích nổi bật của ĐBSCL trong hai thập niên trở lại đây là kết quả giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Chính phủ ở ĐBSCL đã giảm từ mức rất cao là 36,9% vào năm 1998 xuống chỉ còn 12,6% vào năm 2010 và 5,2% vào năm 2016, và tỷ lệ này tiếp tục giảm trong giai đoạn 2016-2019. Không những thế, tỷ lệ nghèo của ĐBSCL luôn thấp hơn so với mức trung bình của cả nước.
Tuy nhiên, đa số thành tích giảm nghèo của ĐBSCL (cũng như của cả nước nói chung) được thực hiện trong 6 năm từ 1998 đến 2004.
Điều này, một mặt gợi ý rằng phần dễ dàng trong giảm nghèo đã gần hết, và vì vậy kết quả giảm nghèo sẽ càng ngày càng khiêm tốn hơn so với trước; mặt khác cho thấy từ nay trở đi kết quả giảm nghèo sẽ mong manh hơn và có thể bị đổi chiều dưới tác động của những rủi ro kinh tế, môi trường, và dịch bệnh trong và ngoài nước.
Lo ngại về năng suất công nghiệp
Trong giai 2010-2019, năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp và thương mại - dịch vụ tăng rất nhanh, với mức trung bình lần lượt là 5,2% và 8,3% trong giai đoạn 2010-2019.
Đáng lưu ý là tốc độ tăng NSLĐ công nghiệp - xây dựng trong giai đoạn 2010-2019 chỉ là 3,5%/năm – thấp hơn hẳn so với khu vực nông - lâm - ngư nghiệp vốn là khu vực không có nhiều dư địa để tăng năng suất.
Có ba nguyên nhân trực tiếp nằm đằng sau thực trạng đáng lo ngại về tốc độ tăng năng suất công nghiệp ở ĐBSCL.
Thứ nhất, năng suất công nghiệp phụ thuộc vào đầu tư, và trong bối cảnh của Việt Nam thì quan trọng nhất là đầu tư của khu vực FDI, mà đây chính là một điểm yếu cố hữu của ĐBSCL.
Thứ hai, hoạt động sản xuất công nghiệp quan trọng nhất ở ĐBSCL là chế biến thủy hải sản, thế nhưng tốc độ tăng trưởng của hoạt động này lại khiêm tốn, không những thế còn chịu rủi ro từ những biến động thất thường không chỉ về khí hậu và tự nhiên, mà còn do khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Đại dịch COVID-19 có thể làm trầm trọng hơn tình trạng này, khiến công nghiệp ĐBSCL khó phát triển ít nhất là trong trung hạn.
Thứ ba, các hoạt động sản xuất công nghiệp còn lại của ĐBSCL nhìn chung khá trầm lắng, nếu có tăng trưởng thì chủ yếu tập trung vào các hoạt động chế tạo - chế biến thâm dụng lao động với giá trị thấp.
Nhìn sâu xa hơn, công nghiệp của ĐBSCL nói riêng và kinh tế - xã hội ĐBSCL nói chung đang bị cản trở bởi nút thắt nghiêm trọng về cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối với Đông Nam Bộ.
Trong khi công nghiệp chế biến - chế tạo và cơ sở hạ tầng là hai nút thắt quan trọng cho tăng trưởng của ĐBSCL thì tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội của Vùng so với cả nước ngày càng suy giảm, đặc biệt là từ năm 2015 đến nay.
Không những thế, nguồn đầu tư từ khu vực nhà nước ngày càng bị thu hẹp cả về quy mô tuyệt đối lẫn tỷ trọng tương đối (41,4% năm 2014 giảm còn 22,4% năm 2018.
Đối với FDI, ĐBSCL chưa thực sự tỏ ra hấp dẫn. FDI của vùng chỉ chiếm 5,6% số dự án và 8,4% số vốn đăng ký của cả nước, chủ yếu do bất lợi về mặt địa lý và khả năng kết nối giao thông. Long An và Tiền Giang là các tỉnh có khả năng thu hút đầu tư FDI tốt nhất vùng nhờ có đường cao tốc nối liền với TP.HCM.
Một cách tổng thể, nhu cầu đầu tư quan trọng nhất ở ĐBSCL là phát triển hạ tầng giao thông (cầu, đường cao tốc, đường tỉnh lộ), hỗ trợ đổi mới mô thức sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp và thích nghi với biến đổi khí hậu, và chế biến sản phẩm nông - thủy sản.
Trong thời gian qua, các cây cầu trọng yếu ở ĐBSCL có vai trò tích cực, nhưng nhiều cây cầu quan trọng vẫn chưa được xây dựng. Nhiều công trình thủy lợi, ngăn mặn tuy thành công để thâm canh và tăng sản lượng lúa, nhưng cơ bản là thất bại trong việc gia tăng giá trị, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, thậm chí gây hại cho sự bền vững cả về kinh tế và môi trường trong tương lai.
1,1 triệu người di cư trong 10 năm
Theo kết quả Điều tra Dân số và Nhà ở, dân số vùng ĐBSCL vào ngày 1.4.2019 là 17,3 triệu người, gần như không đổi so với mức 17,2 triệu người trước đó 10 năm. Số lượng di cư ròng khỏi ĐBSCL trong thập niên vừa qua là gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một số tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của cả vùng.
Nhìn về tương lai, nếu không có những yếu tố đột biến, rất khó để ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng dân số chung và dân số đô thị cao hơn trong 10 năm tới. Trên thực tế, dân số cả Vùng hàng năm đã giảm 0,3% mỗi năm trong hai năm gần đây và dân số thành thị chỉ tăng khoảng 0,6%/năm.
Tình trạng khô hạn ở miền Tây ngày càng khốc liệt. Ảnh: Lê Thế Thắng/Người Đô Thị
Nếu xu thế di dân tiếp tục như hiện nay, mà khả năng này rất cao, thì đến năm 2030, dân số của cả vùng còn chưa đến 17 triệu người, và đến năm 2030, tỷ lệ đô thị hóa rất khó đạt 30%.
Báo cáo này cho rằng để giảm thiểu những thách thức và bất lợi của ĐBSCL cũng như ứng phó với biến đổi khí hậu, việc phân bố lại dân cư, từng bước xóa bỏ thói quen dân cư sống dọc tuyến giao thông, tập trung dân cư về thị trấn/ thị xã/ đô thị để cải thiện hiệu quả cung cấp hạ tầng và dịch vụ xã hội thiết yếu.
Để thực hiện được chiến lược này, cần có quy hoạch bài bản và nhất quán về kinh tế - xã hội - môi trường, đồng thời Trung ương cần dành đủ nguồn lực để xây dựng các hạ tầng giao thông kết nối với vùng TP.HCM.
Kết luận báo cáo nhận định, ĐBSCL đang trải qua một loạt những thách thức lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, đồng thời đang đứng trước ngưỡng tới hạn của mô hình phát triển cũ. Nếu mô hình này – bao gồm cả chính sách của nhà nước và tập quán của người dân và doanh nghiệp – không thay đổi, thì tụt hậu là điều không thể tránh khỏi và sự tan rã của ĐBSCL chỉ là vấn đề thời gian.
Ngược lại, nếu đủ dũng khí và trí tuệ để chuyển sang mô hình phát triển mới, những thách thức hiện nay sẽ trở thành cơ hội to lớn để ĐBSCL tăng cường năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững, từ đó mở ra một tương lai xán lạn cho hơn 17 triệu đồng bào cũng như những thế hệ sau này.
Lam Thanh