Sau tập tiểu luận "Thế gian dài hơn bước chân người" (2024) gồm những bài viết ‘nhìn ra quốc tế’ xoay quanh điện ảnh, văn chương… Hồ Anh Thái vừa trở lại với "Mộng du khi xa xứ" - tập sách nhiều thể loại, nói về sự dịch chuyển và các vùng đất ông đã đi qua.
Muôn vàn cảm xúc
Khi nói đến Hồ Anh Thái, người ta không chỉ nói đến một nhà văn có sức viết “khỏe”, mỗi năm lại cho ra đời một tác phẩm mới, mà còn là người sở hữu vốn đi, vốn sống phong phú. Từ đầu những năm 1990 ông đã sang Ấn Độ học tập, làm công tác ngoại giao đến khi thỉnh giảng tại các trường đại học và có thời gian tham gia giới thiệu văn chương Việt Nam ra với quốc tế.
Những trải nghiệm đó sẽ được tái hiện trong tác phẩm này. Tập sách gồm 24 bài viết, trong đó những truyện ngắn vẫn cho thấy sức hút đặc biệt của nhà văn này suốt mấy năm qua. Đó là giọng văn hài hước, giễu nhại, châm biếm trong Tờ khai visa, Sân bay, Mr.Nem… cho đến cái cay đắng, ngậm ngùi trong Pháo nổ pháo nang, Trả lại cho thiên, Ngồi đường, Cô gái chờ chuyến xe 3 trong 1…

Nhà văn Hồ Anh Thái ở Ấn Độ - nơi ông có thời gian sinh sống và làm việc, dần trở thành một ấn tượng sâu sắc trong nhiều tác phẩm của ông. Ảnh: CTV
Lấy chủ đề dịch chuyển, hai truyện đầu tiên có bối cảnh đặc biệt: đại sứ quán nơi xin visa và các sân bay. Là nơi tụ hội đa dạng kiểu người, Hồ Anh Thái thông qua các mục khai trong đơn xin visa cũng như trải nghiệm của bản thân họ để nói về đời sống, nhận thức nhiều thập niên trước.
Đó là người làm kinh doanh nhưng không thoát được suy nghĩ “ao tù” khi ra nước ngoài, lúc đang tham quan tượng Nữ thần Tự Do. Đó là một cô dâu gốc Việt có cuộc sống ấm êm, nhưng khéo quá lại thành nhạt nhòa. Đó cũng là sân bay nơi ước mơ du học, nghiên cứu có thể tan vỡ bất cứ lúc nào nếu như có kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo trong bộ máy hình thức, quan liêu…
Những truyện ngắn này vẫn cho thấy phong cách đặc trưng của ông, mà gần nhất là tập Trượt chân trên tầng cao. Chất hài trong cách kể, sử dụng ngôn từ, những hình tượng ẩn dụ độc đáo, thú vị cũng như cốt truyện đảo điên… khiến cho thông điệp truyền đi rõ hơn, không nằm sẵn trên bề mặt mà đọng rất lâu sau khi đọc sách.
Cuốn sách cũng chứa chuỗi ba bài Truyện tình không có một chữ yêu, Chưa gặp lại và Cho bạn vay tiền ghi lại khoảng thời gian ông sang Ấn Độ học tập. Trong đó câu chuyện của một du học sinh xa xứ hiện lên thú vị trong mối quan hệ với các “đồng môn” xung quanh, từ chuyện tình yêu, mượn tiền cho đến những món nợ dai dẳng…
Tình thế của người Việt ở nước ngoài cũng được ông gom góp từ các quan sát sắc bén, để họa lại trong Năm trăm, Cô gái chờ chuyến xe 3 trong 1, Người mẹ trùm khăn lụa Hà Đông… Những truyện ngắn này cho thấy những suy nghĩ ở tầng sâu hơn, không còn cười tươi mà là cười buồn, cho thấy thân phận chuyển xoay của đồng bào ta nơi đất khách quê người, không chỉ lạ lẫm mà còn bị cuốn vào vòng xoáy khôn lỏi, tội lỗi cũng bởi bốn chữ “cơm áo gạo tiền”.
Có thể nói chỉ bằng những truyện ngắn có dung lượng vừa phải nhưng Hồ Anh Thái đã khắc họa được những mất mát lớn, khi người ta từ bỏ bản dạng Việt Nam cũng như phẩm chất hiền lành, chất phác biết bao đời nay để sống và để tồn tại bên cạnh gánh nặng từ chốn quê nhà.
Trong số kể trên, Pháo nổ pháo nang có thể nói là truyện ngắn xuất sắc nhất mà trong đó những cam chịu, đè nén của một người xa quê hiện lên rất thật, rất đời. Với bao kỳ vọng ban đầu, y bỗng thấy mình lạc trong một trạng thái kép: xa lạ với quê hương cũng như hy vọng về nơi đất khách dần dần sụp đổ, khi những khác biệt văn hóa đã “chia loan rẽ phụng”, “chia uyên rẽ thúy”…
Từ đó pháo nổ pháo nang như những tích tụ giờ được xả ra rồi được trưng bày như đỉnh cao của sự chán chường ở nơi xứ người. Đó vừa là cái buồn vừa là một cái nấc nghẹn cho những thân phận lạc trôi.
Bên cạnh đó, như ông bà ta nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, những trải nghiệm đi xa cũng khiến Hồ Anh Thái vỡ nhiều lẽ, từ đó truyền đến cho người đọc cái đẹp, cái hay, cái đáng khâm phục.
Đó là người phụ nữ Adi ở Bali quý trọng đồng tiền, công sức lao động và những giá trị truyền thống mà ông trân trọng gọi bà là Madame Adi trong truyện cùng tên. Đó cũng là lòng khát khao khám phá, không tự nhốt mình trong vũng ao tù của thiên khiến bé mọn trong Chia sim rẽ dế…
Bìa sách Mộng du khi xa xứ do NXB Kim Đồng ấn hành. Ảnh: TGCC
Niềm đau vẫn còn
Bên cạnh những điều nói trên, Mộng du khi xa xứ cũng chứa đựng những cái nhìn thực thế, sắc sảo về thế giới ngày nay khi mối quan hệ giằng giai với quá khứ vẫn chưa ngơi nghỉ.
Trong hai năm liên tiếp, Uỷ ban Văn chương của Viện Hàn Lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn chương cho các nhà văn viết về thế giới đang trong quá trình hướng đến vô luân, tan rã: chủ đề bạo lực cho Han Kang và tận thế cho László Krasznahorkai. Và trong những truyện ngắn thuộc tập truyện này, Hồ Anh Thái cũng cho ta thấy cái nhìn tương tự.
Ở đó ông phơi bày ra các giá trị phương Tây cũng mục rữa đi theo chiều thời gian, không phải cái gì gắn với cường quốc cũng là chuẩn chỉnh. Chẳng hạn ở hai truyện Hàng xóm ở Seattle, Ngồi đường, ông viết về sự tự lập mà các bậc phụ huynh Âu – Mỹ dạy cho con mình, ăn sâu vào đời sống. Nhưng liệu đó có cần thiết khi ta cần giúp đỡ, cũng như tự lập đến mức độ nào để không khiến chúng bị hủy hoại khi rơi vào cái hời hợt tuổi trẻ?
Trong khi đó ở các gia đình nhiều quốc tịch, thói quen cũ – thứ được coi là cổ hủ, lạc hậu cũng va chạm khốc liệt với nếp sống mới – nơi được coi là văn minh, khai sáng. Ta thấy điều này trong Công dân toàn cầu, nơi người mẹ Việt thèm ăn cháo lòng, trứng vịt lộn… nhưng lại phải giấu, bởi dưới ánh nhìn “cấp tiến” của thế hệ sau, những điều nói trên là vô nhân đạo và phản khoa học.
Nội bộ của các quốc gia cũng không mấy khác, khi trong đó là những rối loạn chưa được dẹp yên. Ta thấy điều đó trong sự hả hê của đám đông khi muốn trừng phạt một cặp đôi nọ theo kiểu cảnh sát tôn giáo trong Chờ động đất, như cảnh khốn cùng của một nhà văn nữ quyền trong Trời vẫn nắng suốt đêm... hay hướng về quá khứ với sự kiện Thiên An Môn, Chiến tranh vùng Vịnh...
Với Mộng du ở Copenhagen, trong cách kể luân phiên giữa một du học sinh và chính bức tượng nàng tiên cá nổi tiếng, ông cho ta thấy dẫu ở một đất nước tưởng thanh bình như Đan Mạch thì sự rối ren vẫn luôn còn đó khi người con người ta dường như không thể chịu đựng được sự yên bình.
Nhưng dẫu cho đi thật xa, thì sự hoài nhớ hướng về quê hương vẫn luôn hiện diện. Nhưng thay vì sự đùm bọc, đoàn kết, ông nhận ra đó không hẳn là một “bức tranh chỉ toàn màu hồng”. Ở đó vẫn còn những cảm xúc hoang tàn, những bình căm tức chưa được xả hơi… giữa những người con ở hai miền tổ quốc bị đảo lộn cuộc sống trong hành trình hòa giải.
Trong các truyện Tượng đồng và lũ chim, Trả lại cho thiên… điều này được kể một cách độc đáo. Khác với khi sôi nổi, các truyện này lại có độ lắng nhất định, cho thấy người viết như cũng chùn chân trước tình thế ấy.
Để rồi từ đó ông so sánh với Đồng tay Mỹ, Tựa vào gốc anh đào mà ngủ… nơi những vết thương do lính Mỹ, lính Hàn… tham chiến gây ra đã phần nào được xoa dịu, lành đi, từ đó đúc rút: “Nhiều khi giữa đồng bào với nhau lại không hề dễ dàn xếp như với bên ngoài”.
Cho đến cuối cùng, ông nén một tiếng thở dài tuy không qua rừng kim tước mà là qua sự căm ghét, rằng cứ như tượng đồng đứng đó mặc cho lũ chim phóng uế, rằng hãy cứ sống tiếp bởi vì bia miệng ở thời đại này đâu còn trơ trơ.
Ở tầng sâu nhất, Mộng du khi xa xứ cho thấy Hồ Anh Thái vẫn là người viết bền bỉ quan sát thế giới bằng con mắt tỉnh táo, giàu trải nghiệm nhưng không thôi day dứt. Câu chuyện ông kể khi hài hước, châm biếm, lặng buồn nhưng đều tụ lại về một mạch nguồn chung: con người trong chuyển động toàn cầu luôn mang theo những vết thương và ký ức khó dứt bỏ.
Bằng lối viết linh hoạt, sắc lạnh nhưng giàu tình cảm, tập sách không chỉ mở rộng biên độ văn chương mà còn gợi lại câu hỏi chưa bao giờ cũ: Rốt cuộc sau những bước chân phiêu lãng, ta tìm thấy gì từ thế giới này và học được gì cho bản thân ta?
Minh Anh