Câu hỏi đặt ra là những khu vực được xây dựng ở giai đoạn này, tại sao càng mới lại càng dễ tổn thương trước mưa lũ? Phải chăng phần lớn nguyên nhân đến từ cách chúng ta tự xây dựng, tách rời khỏi hệ sinh thái mặt nước vốn là bản sắc tự nhiên của Thăng Long – Hà Nội?
Trong bài viết này, KTS. Trần Tuấn phân tích bối cảnh lịch sử, chỉ ra giới hạn của “hạ tầng xám” và gợi mở con đường quy hoạch bền vững hơn cho Thủ đô: trở về với tinh thần đô thị hài hòa cùng nước.
* * *
Những mùa mưa bão vừa qua đã phơi bày một nghịch lý trong quá trình phát triển hạ tầng của Hà Nội: nhiều khu vực trong Hà Nội bị ngập lụt, nhưng không phải ở những khu phố cũ, mà những điểm úng ngập nghiêm trọng và lâu nhất lại xuất hiện ngay trên các tuyến đường mới, trục giao thông chính, hay nhiều dự án cao cấp vốn được kỳ vọng hiện đại và có hạ tầng thoát nước đồng bộ. Không phải chỉ do các cơn bão như Yagi, Bualoi, mà mỗi khi mưa to, thì từ các tuyến đường Nguyễn Trãi, Láng Hạ, Thái Hà, Tôn Đức Thắng, cho tới các tuyến đường Nguyễn Xiển, Phạm Hùng, Mỹ Đình, Võ Chí Công, nơi nào cũng ghi nhận tình trạng ngập nặng, gây ách tắc giao thông và xáo trộn đời sống.
Bản đồ vị trí các điểm úng ngập tại Hà Nội ngày 30.09.2025 trong đợt bão số 10 (Bualoi). Ảnh: thoatnuochanoi.vn
Những khu được quy hoạch cao cấp như Ciputra, Khu đô thị Tây Hồ Tây, Nam An Khánh là những dự án có giá trị bất động sản rất cao đều bị ngập lụt diện rộng và trong thời gian dài. Điều này đặt ra câu hỏi: tại sao các tuyến đường huyết mạch của một đô thị, những dự án đã được xây dựng đồng bộ, cao cấp trong quy hoạch của Hà Nội tới tận 2050, lại dễ dàng “thất thủ” trước một trận mưa?
Và nếu tình trạng xây dựng vẫn còn tiếp diễn thì viễn cảnh nào cho Hà Nội sau này mỗi khi có những trận mưa lớn?
Mỗi khi mưa to, các tuyến giao thông chính của Hà Nội lại ngập lụt gây hỗn loạn, nhiều dự án cao cấp có giá trị bất động sản rất cao đều bị ngập lụt diện rộng và trong thời gian dài khi Hà Nội có mưa lớn. Ảnh: VnExpress, Báo Tiền Phong
Chắc hẳn có nhiều nguyên nhân cho vấn đề này, nhưng một nguyên nhân trực tiếp nằm ở sự lệ thuộc gần như tuyệt đối vào hệ thống thoát nước ngầm bằng cống bê tông – mà các nhà quy hoạch gọi là “hạ tầng xám”. Mạng lưới cống thoát nước, vốn được kỳ vọng có thể nhanh chóng dẫn toàn bộ nước mưa ra sông đã nhanh chóng quá tải, ùn ứ khi lượng nước đổ xuống quá lớn.
Trong khi đó, khả năng thấm và trữ nước tự nhiên của đất đã bị triệt tiêu bởi lớp nhựa đường, bê tông và gạch lát. Khi đất không còn chỗ thấm, sông và hồ ao bị thu hẹp hoặc san lấp, nước chỉ còn một lối duy nhất: dồn ứ vào cống. Và khi cống đầy không đủ khả năng thoát, toàn bộ mặt đường trở thành sông.
Khả năng thấm và trữ nước tự nhiên của đất đã bị triệt tiêu bởi lớp nhựa đường, bê tông và gạch lát. Và khi cống đầy không đủ khả năng thoát, toàn bộ mặt đường trở thành sông. Ảnh: Minh Trang/Người Đô Thị
Nhìn lại trong lịch sử, vấn đề ngập lụt của TP. Hà Nội gắn với đặc thù địa hình tự nhiên của vùng đất này. Thủ đô nằm giữa lòng đồng bằng châu thổ sông Hồng, vốn thấp trũng và nhiều biến đổi địa mạo. Các hồ trong nội đô ngày nay phần lớn chính là kết quả của sự thay đổi dòng chảy các con sông qua hàng thế kỷ.
Xưa nay, ngập lụt vốn luôn xảy ra với mức độ khác nhau, và mỗi thời đại đều tìm cách riêng để sống hài hòa cùng nước. Tuy nhiên, cha ông ta không chỉ coi nước là hiểm họa, mà còn có thể là một lợi thế không thể tách rời của đời sống. Hệ thống đê điều, sông, hồ, ao, mương vừa là công cụ để điều tiết thủy lợi, vừa là đường giao thông thủy bộ, là nơi chứa và điều tiết nước khi mưa lớn, là lá phổi điều hòa cho mùa hè nóng nực.
Sông Tô Lịch, Hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Hoàn Kiếm, hồ Thiền Quang và hệ thống mặt nước, đồng ruộng… không chỉ là những cảnh quan gắn bó với Thăng long - Hà Nội mà còn là những "hạ tầng xanh" giúp thành phố thấm, giữ và thoát, giảm tải ngập úng.
Văn hóa sống hài hòa cùng với nước, thuận theo tự nhiên là cốt lõi của văn hóa Việt, hình hành và bồi đắp trên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Ảnh: Shutterstock, NAG Ngô Xuân Phú
Quá trình đô thị hóa với tốc độ chưa từng có trong vài thập niên gần đây đã làm đứt gãy mối quan hệ vốn có giữa đô thị Hà Nội và hệ sinh thái không gian mặt nước truyền thống. Nhiều diện tích mặt nước, đồng ruộng bị san lấp, các con sông như Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét bị thu hẹp, giảm độ rộng và sâu, dòng chảy và ô nhiễm làm cho người dân đô thị ít, thậm chí không còn quan tâm, yêu mến, vai trò điều tiết nước bị giảm hoặc biến mất do nhiều ao hồ bị lấp, nước không còn ngấm xuống đất để từ đó thấm qua các hồ, sông.
Các tuyến phố hiện đại, các dự án quan trọng được quy hoạch tách rời khỏi hệ sinh thái nước của thành phố. Sự hấp dẫn của công nghệ hiện đại, giao thông tiện nghi và đời sống lệ thuộc vào công nghệ làm cho phần lớn hệ sinh thái mặt nước vốn là đặc thù tự nhiên của Hà Nội không còn được trân trọng và bị quên lãng khỏi đời sống.
Thiết kế "Đô thị rỗng xốp" (Sponge city) là định hướng quay về với hạ tầng xanh thuận theo tự nhiên đã được áp dụng rất thành công ở nhiều thành phố châu Á. Ảnh: Sponge cities
Quy hoạch của nhiều thành phố lớn đã chọn định hướng phát triển hiện đại, đặt niềm tin vào hệ thống hạ tầng nhân tạo trở nên rất mong manh trong kỉ nguyên biến đổi khí hậu với nhiều tình huống cực đoan. Nhiều đô thị châu Á đã thấy ra vấn đề này và có những điều chỉnh phù hợp. Thiết kế “Đô thị rỗng xốp” (Sponge cities) là định hướng quay về với hạ tầng xanh thuận theo tự nhiên đã được áp dụng rất thành công ở nhiều thành phố châu Á.
Thay vì đô thị bám lấy đường, cần phát triển theo điều kiện không gian mặt nước đặc thù của Hà Nội. Các bề mặt đô thị cần tăng độ "thấm xốp" để phát huy khả năng thấm, trữ của đất, góp phần điều tiết, trữ lượng nước mưa. Ảnh: HWSUD
Trước thực tế đó, hướng đi bền vững cho TP. Hà Nội phải là trở về với tinh thần phát triển thuận theo tự nhiên. Các dự án phát triển cần thận trọng phát huy truyền thống đô thị sống cùng với nước, coi mặt nước không phải trở ngại mà là bản sắc và lợi thế cần được phát huy.
Các dòng sông trong đô thị, các hồ tự nhiên còn lại phải được xem như những “hạ tầng xanh” thiết yếu để đưa ra những bản quy hoạch, thiết kế không gian đô thị tạo nên cảnh quan bản sắc độc đáo của Hà Nội. Cùng với đó, khả năng thấm và trữ nước của đất cần được khôi phục bằng cách giảm tối đa diện tích bê tông hóa, gia tăng mảng xanh, sử dụng vật liệu thấm nước trong hạ tầng.
Các dòng sông trong đô thị, các hồ tự nhiên phải được xem như những "hạ tầng xanh" thiết yếu để đưa ra những bản quy hoạch, thiết kế không gian đô thị. Ảnh: HWSUD
Hà Nội với một bề dày văn hóa, chỉ có thể sống chung, hài hòa với nước khi biết dựa vào điều kiện tự nhiên của chính mình, tiếp nối truyền thống cha ông đã nhiều ngàn năm gây dựng. Khi coi nước là bạn đồng hành, không gian mặt nước sẽ không còn là nguy cơ mà trở thành bản sắc đô thị, giúp thủ đô vừa an toàn, vừa bền vững, vừa giữ được dấu ấn riêng của một thành phố trong lòng châu thổ sông Hồng.
KTS. Trần Tuấn (Nhóm nghiên cứu không gian mặt nước Hà Nội – HWSUD)