Ai đó mới trồng một cây kơnia trước mộ ông, hẳn để tăng chất “Tây Nguyên” cho mộ một già làng. Nhưng ngôi mộ vẫn được che mát nhờ một cây cổ thụ to còn sót lại giữa cơn xô bồ thời địa ốc. Nó nằm giữa thành phố Buôn Ma Thuột, thuộc phường Tân Lợi, quanh khắp nó đã tràn ngập nhà bê tông với kiến trúc Âu Mỹ như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng.
Nhà kiến tạo bẩm sinh
Ama H’rin từng kể với tôi ông là đứa trẻ mồ côi ở cái làng Ea Mlai nhỏ ở vùng M’drak bị thiêu rụi vì đạn pháo chiến tranh. Ông đi chăn bò thuê và làm mọi thứ, cho đến khi học lỏm được nghề trồng cà phê trong các đồn điền Pháp trên cao nguyên Đắk Lắk, và dạt đến đầu con suối Ea Nuôl ở Buôn Ma Thuột, rồi lập ra được cái buôn Akô Dhông này cho những người Ê Đê nghèo như ông từ giữa thập niên 50 thế kỷ trước. Làng ông cũng là làng Ê Đê đầu tiên trồng cà phê, và ông là người trước hết của làng ấy.
Ra đời gần 60 năm qua, buôn Akô Dhông vẫn nguyên si nếp nhà dài Ê Đê truyền thống. Nói tiếng Pháp và tiếng Việt lưu loát như Ama H’rin mà đến khi chết vẫn chết trên căn nhà dài kìa. Mỗi gia đình một căn nhà sàn dài ngút, đẹp thuần khiết, chắc chắn, sườn là gỗ căm xe và cà chít. Bên trong căn nhà dài nào cũng có bếp lửa, có cồng chiêng, ché rượu, cây nêu, vỏ bầu, trái bí, và tất cả những vật kia vẫn đang “sống”, được gióng lên, thở ra, bốc khói, chứ không phải hiện vật triển lãm. Bên ngoài, để lên bất cứ căn nhà sàn nào, khách vẫn bước lên cặp đôi cầu thang “đàn ông” và “đàn bà”, mà chiếc cầu thang vẫn tạc đôi ngực phồn sinh của người phụ nữ. Không còn những rẫy lúa nữa, chỉ là rẫy cà phê, thế mà những gì liên quan đến “không gian văn hoá cồng chiêng” và nền “văn minh thảo mộc” vẫn còn nguyên.
Tượng do một nghệ sĩ điêu khắc từ vùng biển Ngũ Hành Sơn tận Đà Nẵng lên tạc cho mộ Ama H’rin.
Bây giờ đời sống khá giả, nhiều hộ xây thêm nhà mới, thì căn biệt thự lại đặt lút cuối căn nhà dài, nép mình bên căn nhà sàn, chứ không được chồm ra. Cây phía sau trùm cái biệt thự lại, trong khi căn nhà sàn như mũi tàu hướng ra mặt đường phố chính - con đường nhựa mang tên Trần Nhật Duật xuyên qua làng. “Dân trí” ở cái làng này không những không thua kém mà nhiều làng Việt hay khu phố người Kinh hình thành trên đất Tây Nguyên, chạy theo ứ hơi không nổi. Người Akô Dhông tham dự mọi nghề nghiệp trong xã hội, thành đạt, và được nể trọng rộng khắp. Bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, công chức, doanh nhân… ê hề ở làng này. Nhiều chục năm trước Ama H’rin đã coi giáo dục là lối ra cho dân tộc, và nài nỉ các gia đình bền bỉ thực hiện. Con trẻ, ra đường nói tiếng phổ thông nhưng về nhà phải nói tiếng Ê Đê với nhau. Đi xe hơi, ăn tiệc buffet, nhảy múa hiện đại, uống rượu Tây, nhưng ai cũng yêu giấc ngủ ở nhà dài, chơi được đing pút, đing năm, ăn được món kiến trộn, canh cà đắng, si mê dân ca Ê Đê, dệt được thổ cẩm...
Nửa thế kỷ qua, Ama H’rin đã định hướng con đường phát triển cho cộng đồng như thế. Giàu có, sung túc, nhưng vẫn có hồn cốt riêng, sức mạnh riêng, vẻ đẹp riêng. Hỏi ra mới biết Ama H’rin luôn nói với làng về sắc thái Ê Đê, truyền thống riêng. Nhưng ông không cưỡng ép ai cả. Ông thực hiện điều đó trong căn nhà dài của gia đình mình, cả làng thấy “đúng quá”, làm theo. Ông “lái” họ đi tự nhiên. Làm sao người ta không tin yêu ông khi lúc lập làng, đất ông mở nhưng cà phê trồng ra bốn mươi mẫu ông chia đều với mọi người. Đây là một cái làng mà sự thanh bình, an lạc, ấm no, bình đẳng đạt đến tận cùng. Bao thập niên qua nó trở thành mô hình mẫu mực ở cao nguyên, cả nước không thể có cái thứ hai. Khi tất cả các buôn ở trong lòng Buôn Ma Thuột đã dần biến mất hình hài, từ Alê A, Alê B, Păm lăm, Kô Sia, thì Akô Dhông vẫn sừng sững, thách thức biến thiên thế cuộc. Một cái buôn kỳ lạ. Một cái làng sơn cước “thâm hậu”. Bao nhiêu năm không lạc “qui hoạch”, không vỡ kiến trúc, không tan thiết chế gia đình, xã hội, giữa thành phố Buôn Ma Thuột năng động thế kia. Điều kỳ diệu ấy được xây trên nền móng của tầm nhìn xa trông rộng và trái tim nhân ái vô tận của nhà kiến tạo Ama H’rin.
Rạn dần theo thời vận
Ngồi bên mộ ông, rồi tôi lại đứng lên, dạo quanh làng, đặt chân lên các căn nhà dài. H’Len Nie, một phụ nữ tuổi 43 rắn rỏi đang chỉ huy cất thêm một căn nhà dài phía trước mảnh đất còn lại của gia đình mình. Nhờ qua nhiều mối lái, H’Len mới mua được mớ gỗ căm xe này, không như xưa muốn có gỗ cất nhà sàn bà con cứ lên rừng đưa về. H’Len bảo tôi dù thời cuộc thế nào cô cũng phải giữ truyền thống, như Ama H’rin đã làm. Cái khác là xưa nay mọi căn nhà dài do đồng bào xúm lại cất cho nhau, nay thì H’Len thuê người Kinh làm. H’Len lý giải là để nhanh gọn hơn, vì đồng bào mình thi công chậm, máy móc không đầy đủ, nên giá thành sẽ cao hơn. Rất thức thời: vấn đề là linh hồn của nhà sàn, hình dáng kiến trúc và người sử dụng nó, chứ không phải do tay thợ nào cất lên.
Bắt đầu ngăn chia không gian của làng, và cổng, rào xuất hiện.
Nhưng H’Len không chịu được cảnh gần đây giữa các nhà sàn lại dựng nên tường rào, điều trước đây không có. Xưa nay mỗi căn nhà dài là một gia đình, kể cả nhiều thế hệ, và toàn buôn là một gia đình lớn. Người ta sống yêu nhau và tin nhau, tin cả người bên ngoài nếu đặt chân đến phố Akô Dhông. Đúng như H’Len lo, tôi nhận ra tường rào xuất hiện khắp. Mà không chỉ tường rào, mỗi lối vào nhà sàn đã bắt đầu xuất hiện những chiếc cổng sắt khổng lồ. Xưa Akô Dhông sống thả lỏng, an nhiên, bền bỉ. Nay Akô Dhông hình như đã cuốn vào vòng xoáy chung, sự cảnh giác cũng tăng lên. Cấu trúc vật thể và phi vật thể thế là giãn ra, rạn dần.
Rạn dần như H’Len nhận ra. Nhiều người bất lực trước cấu trúc của làng ngày một mong manh. Xưa mình Ama H’rin nói, ai cũng nghe. Nay ai cũng nói, nhưng ít người nghe. Hoặc ít khi buồn nói, khuyên bảo nhau nữa. Họ bảo tôi suốt năm qua họ ê chề cho cái nhà hàng, khách sạn khổng lồ với thứ kiến trúc xa lạ nằm ngay đầu làng. Bao nhiêu căn nhà sàn truyền thống từ tốn nép mình trong thiên nhiên, thanh thoát như tiếng chiêng, với màu sậm của gỗ và màu đỏ của mái gạch, bỗng lạc lõng trước công trình bê tông diêm dúa. Khách sạn và nhà hàng Yang Sing đó dĩ nhiên khai thác giá trị của buôn Akô Dhông để sinh lợi, chỉ có điều nó như “đè” cái buôn này xuống để vắt sữa, thay vì khiêm tốn nương theo từ kiến trúc đến văn hóa, tâm hồn. Y Dắc, con trai của Ama H’rin tâm sự với tôi: “Dĩ nhiên là ông già sẽ rất buồn, khi phải thấy những công trình kiến trúc xa lạ xuất hiện trong buôn mà mình suốt đời nhào nặn ra và gìn giữ!”. Còn Y Phôn - cũng là một người thân của buôn này, dù xuất thân tận một làng ở Ea H’leo cách 150 cây số - kể với tôi rằng, trước khi mất Ama H’rin tâm tư rất nhiều vì sợ tan biến không gian sống đặc trưng, bản sắc kiến trúc Ê Đê, cũng như sự chan hòa yêu thương giữa người với người khi ông không còn trên đời.
"Bản sắc", bao lâu nữa?
Những người trẻ ở Akô Dhông vẫn chơi xe máy, xe hơi, điện thoại di động đủ kiểu. Họ mặc quần jeans áo pull, váy hiện đại. Như Y Dăc hát bất cứ thứ nhạc pop, rock nào anh thấy hay. Vậy thì cái truyền thống nhiều khi chỉ là mong muốn ước lệ, chứ không hẳn bất biến. Ama H’rin tạo ra được không gian kiến trúc đặc trưng cho Akô Dhông, nhưng ông không thể ngăn cản được sự vận chuyển của cảm xúc trong tâm hồn những người sống trong từng căn nhà dài.
Như H’Len, có lường được đâu một ngày đi thuê những người không biết gì về nhà dài Tây Nguyên dựng những căn nhà ấy cho mình. H’Len bảo nếu nàng là trưởng buôn, sẽ nói cộng đồng không cho những kiến trúc vô duyên, lạc điệu như thế ra đời. Nhưng luật pháp nào cho nàng làm điều đó, khi người ta xây dựng công trình theo giấy tờ, được luật pháp bảo hộ. Thôi thì giữ được chừng nào hay chừng đó. Trật tự tự nhiên sẽ “dạy” cho bạn chuyển dịch và tồn tại.
Tác giả và Ama H’rin chụp chung tại một lễ hội cao nguyên.
H’Len đủ nội lực của một người mẹ Ê Đê với tình yêu sâu nặng để giữ cho căn nhà sàn cô đang cất thật “Ê Đê”. Y Dắc đủ sức để hát nhạc hiện đại nhưng vẫn mang hồn cốt núi rừng, ở cái tuổi trên 40 và trải qua hành trình dài được Ama H’rin nạp cho năng lượng. Nhưng những người trẻ, lớn lên khi Ama H’rin đã khuất bóng, có đủ sức đi theo con đường khó khăn đó? Giữ bản sắc sơn nguyên được hơn nửa thế kỷ qua đã là kỳ diệu, khi mà bon, plei, buôn ở nhiều nơi đều bất khả. Cả Buôn Ma Thuột đã nở tưng ra, mỗi ngày một to đùng, sinh động và sôi động, ồn ào và bát nháo, cởi mở và tàn bạo, thì không gian của “kiến trúc sư trưởng” Ama H’rin thành một “cõi riêng” mà được à!
Đến Buôn Ma Thuột hỏi đường Trần Nhật Duật không chắc nhiều người biết, nhưng hỏi buôn Akô Dhông thì đố ai không biết. Vái lạy nấm mộ già làng khả kính và nhìn cho thỏa thuê bản sắc một làng sơn nguyên ngạo nghễ giữa phố đô hội lần nữa, tôi chậm bước ra phía đầu làng. H’Len Nie bày tỏ rằng mỗi sáng chạy thể dục ngang mộ Ama H’rin, nàng thường đứng thẫn thờ trước mộ, và hay nhủ ông: “Già làm sao linh thiêng về kết nối mọi người, để cuộc sống được như xưa, chan hòa và đoàn kết”. Vong linh ông có làm được điều cô H’Len Nie cầu mong không, hay ông đã xong sứ mệnh của mình?
Bài và ảnh: Nguyễn Hàng Tình