Ngày xưa, mấy bà chọn dâu là vô coi bếp. Lúc má chồng đi coi mắt tôi, tôi cũng dọn rửa bếp cho ngăn nắp, vừa là thói quen, vừa là khoe với má "vương quốc" của mình.
Lúc còn bé, tôi may mắn được về sống ở quê. Tôi biết cách nấu từ lò trấu, bếp nấu lá cho đến bếp củi. Những năm 1980, tôi nấu cơm bằng bếp củi, ngoài cái bếp còn dùng thêm cái vòng bằng nhôm lót đáy nồi chảo nên nấu bếp củi mà nồi chảo trắng tinh. Sau đó chuyển qua nấu than. Trong nhà, tôi là đệ nhất chất bếp than với bất cứ vật liệu gì có trong tay: từ củi dầu cho đến cọng tre, giấy vụn, vải vụn… và làm rất nhanh, lại không khói um nhà. Than nấu dư thì gắp vô một cái nồi gang nhỏ gọi là nhốt than, rồi đậy kín nắp cho tắt lửa, buổi chiều lại gắp than ra nhóm tiếp, được cái, than đã nhốt nhóm rất nhanh bắt lửa nhưng đương nhiên là nhanh tàn. Cái bếp than bằng đất thì xài rất lâu, nếu xục xịch thì tôi lấy kẽm ràng lại cho chặt nhưng sao cái vỉ than thì nứt bể hoài. Nếu nứt sơ sơ thì cũng lấy dây kẽm ràng nhưng bể tan nát thì phải đi mua cái mới, khéo thì nhắm chừng là biết cái vỉ đó vừa họng bếp nhà mình không, vụng thì phải cầm cái cũ đi ra chợ đo cho chính xác. Mỗi lần thay cái vỉ là tôi sung sướng nhìn ngắm như là có bếp mới, bữa đó nấu ăn cũng vui hơn hẳn! Tro than sau mỗi ngày là phải đổ cho sạch sẽ khỏi bụi. Trong khi nấu ăn tôi thường hay lùi hột mít vào tro cho mấy đứa em, tro nóng âm ỉ, hột mít chín từ từ vừa bùi vừa thơm.
Hồi xưa nấu ăn là đầu tư ghê lắm! Buổi trưa từ nhỏ tôi đã chẳng ngủ trưa mà lấy tre ra chẻ cọng nhỏ để nhóm bếp, tiện tay chuốt thêm một bó tre thật mỏng gọi là đóm cho bà tôi châm lửa hút thuốc lào. Gạo cũng phải đong ra rá lượm cho sạch lúa và sạn. Rảnh nữa thì lấy nồi niêu, xoong chảo, ấm nấu nước ra dùng tro bếp chà cho sáng bóng. Bữa nào mà lỡ nấu cháy nồi là trưa đó lấy vỏ chanh nấu với muối cho tróc rồi chà chết thôi! Bây giờ bếp gas ít nhất có hai họng lò, nồi cơm nấu điện riêng. Hồi đó có hai bếp than, chất một bếp nấu cơm trước, ghế nồi cơm thì gắp bớt than ra nấu đồ ăn, thế mà vẫn nấu rất nhanh, sau này, tôi được tăng cường thêm một bếp dầu nên nấu vèo vèo. Bếp dầu thỉnh thoảng phải thay tim, buổi trưa tôi hì hụi sửa tim bếp, cho tim ngấm dầu, rồi pha xà bông chà rửa cái bếp bên ngoài cho sạch sẽ, giữ mãi màu xanh cẩm thạch chấm đen nguyên thuỷ.
Thời xưa không có tủ lạnh mà có một cái chạn đựng chén kiêm đồ ăn chín. Cái chạn được làm bằng gỗ, có cửa lưới ngăn ruồi nhặng. Dưới chân chạn là bốn cái chén màu da lươn chuyên dụng để kê bốn chân rồi đổ nước vô cho kiến khỏi leo lên. Có nước là có muỗi. Tôi nuôi cá phướng để đi đá nên vài ngày lại lấy cái muỗng, đợi lăng quăng bơi lên thì hớt cho vô hũ cá. Cả buổi trưa tôi say sưa bò xuống sàn ngắm nhìn lăng quăng cái ốm nhom, lăng quăng đực tròn quay mập ú, tung lên lặn xuống. Đồ ăn nấu chín bỏ vô chạn, sáng ăn đến chiều, không để qua đêm. Nếu muốn để qua đêm thì nấu cho kỹ, cất vô chạn, còn không thì mở nắp, ụp lên bằng một cái rổ, dằn cái thớt cho mèo khỏi lục đúng kiểu “chó treo mèo đậy”! Hai bên hông chạn đóng hai cây đinh, móc vào hai lon Guigoz đục lỗ dưới đáy để muỗng đũa cho ráo nước. Chén bát rửa xong phải phơi nắng bên hông nhà rồi úp lên chạn.
Cái bếp của tôi bé tẹo tèo teo, chật ních nhưng rất gọn ràng. Bếp kê trên mấy viên gạch ống, bên trên là một tấm ván đóng đinh vô tường để gác vung nồi, dắt dao, mé dưới đóng đinh treo nồi niêu xoong chảo thẳng hàng. Miếng lót tai nồi cũng được tôi tỉ mẩn khâu vào mỗi buổi trưa từ vải vụn may quần áo cho búp bê, khâu túi hình chữ nhật rồi nhồi gạc bông gòn vô cho êm tay.
Sàn bếp nấu ăn xong là tôi lau bằng nước pha xà bông, nên nền gạch bông cũng kêu ken két. Còn nhớ lúc đó tôi chừng 9-10 tuổi nhưng bặm môi vắt khăn cho thiệt ráo nước lau nhà cho khô. Hồi đó nước chảy chợp chờn, lúc có lúc không, nửa đêm phải thức hứng nước. Ba tôi “sáng kiến” ra cách đào đất, chôn cái lu xuống dưới thấp hơn đường ống nên nhà tôi nước chảy mạnh hơn tí nhưng ban đêm vẫn phải đợi nước, khi nước chảy vào cái lu thấp, tôi dùng thùng múc vô cái lu sành da lươn cao gần bằng mình rồi đậy kín lại bằng một tấm gỗ để xài trong ngày.
Nhà tôi có mình tôi là con gái nên cả nhà xúm vô dạy, làm như là hư đến nơi. Tôi được kèm cặp từ lời ăn tiếng nói đến phong cách phụ nữ truyền thống, nói chung là công ngôn hạnh. Dung thì nhỏ quá, chẳng nhớ có dạy không, chắc là có vì tôi còn nhớ câu “Gái không trang điểm bất thành nữ”… Đi đứng thì thẳng lưng, giữ thẳng đầu nhưng quét nhà phải khòm lưng, moi móc trong gầm, trong kẽ, có đồ thì nhấc ra quét lau rồi đặt trở lại. Vô bữa phải ngồi đầu nồi, xới cơm cho cả nhà, món ngon để dành cho cha. Ngồi ăn mắt phải để ý châm thêm món ăn, thêm mắm, muốn châm thêm canh phải lấy tô khác múc vô rồi châm thêm vô tô cũ, không được bưng tô canh trên bàn đi, cũng không được bưng nguyên nồi ra bàn ăn nhìn thô thiển.
Đôi khi tôi ấm ức với nền giáo dục tôi được thụ hưởng, tôi ghen tị với mấy chị em con cô con dì tung tăng trong khi tôi chúi mũi vào bếp nhưng sau này tôi mới nghiệm ra là tôi được rất nhiều từ nền giáo dục có phần hà khắc ngày xưa. Văn hoá bếp là văn hoá gia đình, nếp bếp là nếp nhà, nếp bếp ấy sẽ được lưu truyền và góp phần làm nên những giá trị cho gia đình đã ít nhiều phôi phai trong cuộc sống hôm nay.
Nguyễn Phạm Khánh Vân