Lúc cầm tập truyện ngắn Con rối hát ngoài rừng xa trên tay, tôi thoáng chút tò mò vì đã biết đến tác giả Khải Đơn với tư cách nhà báo, nhà thơ từ lâu, nay chị lại thử sức với thể loại truyện ngắn, lại khai thác ở chủ đề không dễ đọc: môi trường sinh thái và kinh dị huyền ảo. Nhưng từ tò mò, tôi nhanh chóng chuyển sang ngạc nhiên.
Ngay từ những trang đầu tiên, văn của Khải Đơn đã kéo tôi vào một thế giới tàn bạo và u uất, nơi không một ai được nguyên lành. Từ chuyện sống đau đớn đến chuyện chết bi thương. Và nơi mép rìa sống - chết ấy là tiếng rên rỉ của những linh hồn bị bỏ lại. Hóa ra môi trường hay kinh dị chỉ là một góc nhìn, một nền cảnh, để từ đó, người đọc có thể chiêm nghiệm nhiều vấn đề xã hội và lịch sử sâu xa. Có lẽ đây là một tiếng nói mà văn học Việt Nam đương đại đang chờ đợi: mạnh mẽ, không khoan nhượng về tư tưởng và mới mẻ, điêu luyện về bút pháp.
“Một dự án về sự hồ nghi của ký ức”
Đó là lời mô tả về công việc của một nhân vật, thuộc một trong hai truyện ngắn tôi thích nhất: Nữ thần trôi dạt. Bà là một họa sĩ, một khách trọ bị mắc kẹt trong lữ quán ở thị trấn gần cửa sông, mỗi năm lại về làng này để “vẽ một dự án về sự hồ nghi của ký ức” (tr.43). Khi đọc đến cuối truyện, tôi mới nhận ra sự hồ nghi ấy chính là dành cho tôi (và có lẽ) cho phần đông độc giả. Trong hầu hết các truyện, Khải Đơn luôn lựa chọn lối viết làm mờ ranh giới giữa thực tại và tưởng tượng, giữa hiện tại và quá khứ (khiến tôi liên tưởng đến Gabriel Garcia Marquez).
Sự hồ nghi xuất phát từ ký ức bị bôi xóa - để che giấu một tội ác, không phải chỉ của một cá nhân mà của cả cộng đồng. Nữ thần trôi dạt kể câu chuyện kỳ lạ, gây ám ảnh về xác một người đàn bà nằm úp mặt ngay giữa đoạn sông cạn đổ ra biển. Cái xác ở đó, mươi - mười lăm - ba mươi - bốn mươi lăm ngày mà không một ai muốn chạm vào, lật lên xem mặt hay đưa lên bờ.
Từ sự bàn tán, tò mò, cả làng dần chuyển sang trạng thái “tự thuyết phục rằng họ không can dự gì” và rồi họ tận dụng cái xác ấy làm điểm thu hút khách du lịch bằng cách dựng nên một huyền thoại, một “câu chuyện truyền thông”. Họ đồng lòng xóa bỏ danh tính của người chết, từ chối truy tìm lai lịch, nhân dạng hay quá khứ của cô. Chỉ duy nhất một đứa bé gái trong làng vẫn thường ra bờ sông nhìn cái xác và hát những lời khiến người lớn rùng mình sợ hãi: “À ơi, mẹ ngủ cho ngoan/ Sông lịm giấc tròn, người trám miệng bưng/ Mẹ ơi lương tri rữa nát trên dòng…” (tr.49).
Nhưng ký ức dù bị làm cho câm lặng vẫn tìm được cách quay trở lại - bằng giọng hát của một đứa trẻ, bằng cách xây dựng đan xen quá khứ - hiện tại, bằng lời kể của ông chủ lữ quán xen lẫn lời bình của hai người khách trọ - tạo thành những manh mối đứt đoạn. Khi nhận ra người nữ họa sĩ đang thực hiện “dự án ký ức” hình như chính là đứa bé đứng hát năm xưa, tôi hiểu rằng ký ức là thứ không thể bôi xóa.
Tập truyện ngắn đầu tiên của Khải Đơn do Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn ấn hành 6.2025. Ảnh: CTV
Sự hồ nghi cũng có thể sinh ra do ký ức bị đứt đoạn. Như mẹ của Tháu (truyện Bụi mùa hạn) “đã chọn cách không ghi ký ức vào cơ thể Tháu, để Tháu có thể lớn lên làm người” (tr.133) vì trong quá khứ ấy, cha của anh rượt đuổi mẹ anh, bảo với dân làng mẹ “bị ma làm”, để rũ bỏ mẹ con anh vào rừng sâu mà cưới vợ mới. Trong đoạn đời bị vùi lấp đó, Tháu không có cha, không nhớ nhà cũ, không có một ký ức nền tảng để neo bám. Nhưng chính khoảng trống ấy lại tạo ra một “khao khát trượt về nguồn gốc” mãnh liệt đến mức trong một cảnh truyện được viết đầy ảo ảnh, Tháu như nhập vai vào chính quá khứ bị giấu kín kia: anh đánh cha mình, quật cho thân thể ấy “ra nhừ nát” - một hành vi vừa mang tính báo oán vừa mang tính tự hủy. Và rồi, thân thể người cha hóa thành một đầm lầy nuốt chửng anh.
Rốt cuộc mẹ anh đã không thể bảo vệ anh khỏi ký ức mà bà từng cố che giấu. Bởi ký ức bạo lực một khi đã in dấu lên thân thể và huyết mạch thì việc im lặng không đủ để xóa mờ - nó trở thành một thứ di sản lặng lẽ nhưng bền bỉ, truyền đời qua từng thế hệ.
“Thân thể của tất cả chúng ta rồi sẽ làm loài sâu đi ngủ”
Con rối hát ngoài rừng xa chạm đến nhiều vấn đề - từ sự đánh mất nhân tính, kháng cự của thiên nhiên, sự lạc lối của tình yêu và tuổi trẻ, đến sự sống lại của huyền thoại - nhưng nếu cần chọn một chủ đề có thể nối kết 14 truyện ngắn thành một dòng mạch xuyên suốt thì đó vẫn là ký ức. Và thân thể chính là nơi ký ức cư ngụ, hiện hình rõ rệt nhất, đồng thời là nơi thể hiện sức tưởng tượng táo bạo đến vượt ngưỡng của Khải Đơn.
Khải Đơn tại trại sáng tác Millay Residency ở Mỹ, 2024. Ảnh: CTV
Hình ảnh “người không mặt” là một trong những biểu tượng nổi bật nhất của tiến trình này - vừa theo nghĩa đen, vừa ẩn dụ cho sự đánh mất căn tính và nhân vị. Không có mặt vì đó là những con hải cẩu hóa thành người (hay ngược lại) do một thứ chất hiếm lạ lùng bị khai quật lên từ lòng biển (truyện Mang cá mặt người). Không có mặt vì đứa con gái chủ động hóa trang thành một nàng - điếm - không - mặt trong lễ hội dành cho ngày tốt nghiệp (truyện Dữ liệu phản bội). Không có mặt vì cái xác trôi trên sông đã bị trùm kín đầu (Nữ thần trôi dạt). Không còn khuôn mặt lành lặn vì lũ trẻ mồ côi trong làng hầu hết đều bị lũ ốc sên ăn mất mắt trong khi cha mẹ chúng vừa chết trong một trận đại dịch (Mắt chìm trong ốc). Và tuy có mặt nhưng cũng như không vì họ là những cái xác trôi dạt vào đảo, từ đại dương che giấu nhiều bí mật, không ai quen biết họ, mắt môi họ lợt lạt “như thể để người ta quên đi nhanh chóng từng nét, dễ dàng xóa nhòa sau bao lượt sóng đánh” (tr.15) (Sâu của biển).
Họ là ai, vì sao họ bị xóa mờ danh tính và lai lịch?
Khi đọc đến những dòng cuối Sâu của biển (là truyện ngắn tôi ấn tượng nhất), câu trả lời chợt đến. Họ, những cái xác tấp vào đảo vài năm một lượt hay những xác chết khô trên những con thuyền ma giữa đại dương, là những người “đã đi đâu đó trên một hành trình dài bất tận”. Họ là những người ra đi “để tìm tự do” và “để tìm tự do, phải rời lìa mái nhà và câu kinh của má” (tr.21). Họ bỏ lại “thị trấn nhỏ xíu với súng ống vương vãi trên đường, quân phục nằm la liệt như giẻ rách” để lên “con tàu chất đầy người” (tr.20), và chết máy, và cướp biển, và thủy táng… Tất cả đều dẫn đến một thân phận bị lịch sử lãng quên: thuyền nhân. Nhà văn đã không hé lộ một điều gì về tên gọi hay thời đoạn lịch sử, bởi có lẽ điều chị muốn làm không phải là ghi lại một chương sử mà là phục dựng một nỗi đau đã bị chối từ.
Khải Đơn đã biến thân thể thành một bản văn sống, một thứ tư liệu phi ngôn ngữ để viết lại lịch sử của những người bị lãng quên, của những đồng bào chưa từng có tiếng nói. Có lẽ chỉ có ký ức của người cô đơn và yếu thế mới cần phải mượn thân xác để trình hiện nỗi bi thương.
Trong Con rối hát ngoài rừng xa, chị không né tránh những gì bị che giấu, không tô đẹp những mất mát, mà lặng lẽ bước vào vùng tối của ký ức, nơi những linh hồn không gương mặt, những thân thể vỡ vụn, những nỗi đau không lời vẫn còn lẩn khuất. Tôi trân trọng sự lựa chọn ấy - lựa chọn kể lại, không phải như một lời kết tội, mà như một cách đánh thức những gì đã từng bị làm cho im lặng.
Bởi có những ký ức không đi mất. Chúng như “những con sâu ngủ yên trong tiềm thức của mất mát. Chúng không lớn, chúng không rời kén, không mọc cánh bay. Chúng gặm nhấm thời gian và đi tìm…” (tr.19). Và chính văn chương - với cây bút dám lắng nghe và can đảm viết ra - đã cho chúng một lối quay về.
Khải Đơn (tên thật Phạm Lan Phương) là nhà báo, nhà văn viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Cô từng đoạt giải thưởng thơ Virginia de Araujo Prize do The Academy of American Poets trao tặng vào các năm 2021, 2022.
Một số tác phẩm của Khải Đơn đã xuất bản: Đừng tháo xuống nụ cười (tản văn, 2015); Sài Gòn - Thị thành hoang dại (tản văn, 2016); Ta có bi quan không? (tản văn, 2017); Mekong - Phù sa phiêu bạt (du ký, 2018); Gập ghềnh tuổi hai mươi (tản văn, 2018); Đi thật xa trên một chiếc camper (du ký, 2019); Drowning Dragon Slips by Burning Plains (thơ, 2022)...
Nguyễn Hồng Anh