Một cách lãng mạn, nhạc sĩ Phạm Đình Chương nói thay lòng chúng ta, đó là các thành phố “gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên”. Bồng bềnh bên sóng nước, nổi bật hàng đầu là Hạ Long, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP.HCM và Cần Thơ. Từ 1.7 năm nay, phần lớn đều mở rộng không gian gấp bội trở thành những “đô thị trùng dương” có quy mô và tiềm năng kinh tế lớn lao, chưa từng có về cả đất liền và biển đảo.
Nhiều dự án xoay quanh các đô thị sông biển đang được “trình làng”, thu hút sự quan tâm của xã hội. “Nổi sóng” hiện tại là các dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ như hệ thống đường sắt, metro và đường bộ kết nối với sân bay và bến cảng. Kế đến là các dự án khu đô thị cao cấp, khu nghỉ dưỡng, trung tâm tài chính, trung tâm công nghệ cao, các cảng mới và khu công nghiệp mới… Đặc biệt, các ngành kinh tế biển trong không gian, tầm nhìn mới cũng đang gởi đến nhiều “đơn đặt hàng” quan trọng.
Tiếng vọng khẩn thiết từ đáy biển sâu
Với Việt Nam, các ngành kinh tế biển “cựu binh” như đánh bắt - nuôi trồng thủy hải sản, cơ khí hàng hải, vận tải biển, du lịch biển và dầu khí đều cần được tiếp sức, hoàn thiện. Song Việt Nam rất cần nắm bắt nhanh chóng các ngành kinh tế biển “tân binh” đang trỗi dậy vũ bão trên toàn cầu như khai thác đáy biển, công nghệ sinh học biển, môi trường biển, năng lượng tái tạo và xây dựng trên biển. Thật vậy, sau nhiều thập kỷ gian nan, chúng ta đã khai sinh và điều hành công nghiệp dầu khí - một lĩnh vực hoàn toàn tân kỳ với người Việt Nam.
Thế nhưng hiện tại trong kho khoáng sản của biển, đang còn khá nhiều “báu vật” chưa chạm bàn tay Việt. Đó là các khoáng sản rắn - solid mineral dưới đáy biển, bao gồm nhiều kim loại quý như nickel, copper, cobalt và tiêu biểu là đất hiếm - một tài nguyên đang được nhiều cường quốc săn lùng cho công nghệ cao và quốc phòng.
Theo Cục Biển và Hải đảo Việt Nam (VASI, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường), những cuộc khảo sát sơ bộ từ năm 2017 - 2021 cho thấy vùng biển miền Trung và miền Nam là vùng khoáng sản rắn có “tiềm năng cao so với thế giới” (1). Cũng theo VASI, các mỏ dầu khí của Việt Nam trên biển Đông bắt đầu cạn kiệt. Do vậy đã đến lúc các đội quân tinh nhuệ săn lùng “vàng đen” sẽ phải chinh phục tiếp các loại khoáng sản khác trên biển. Hẳn nhiên việc khai thác “kho báu” mới không chỉ để đem “bán thô” như dầu thô mà về lâu dài đó là nguồn dự trữ tài nguyên chiến lược cho nhiều ngành công nghiệp tiên tiến của đất nước.
Bến cảng TP.HCM dọc sông Sài Gòn thông ra biển. Không gian TP.HCM mới bao gồm phần lớn thượng lưu và hạ lựu sông Sài Gòn và có thêm hơn 300 km bờ biển cùng Côn Đảo. Không gian lớn lao và cơ sở hạ tầng hùng hậu này đủ sức “đỡ đầu” phát triển nhiều ngành kinh tế biển mới mẻ.
Những đô thị tân tiến ven biển, kể cả các hải đảo của Việt Nam chắc chắn sẽ là nơi xuất phát của các đội quân “khai mỏ” dưới biển - Seabed mining. Có lẽ Bà Rịa - Vũng Tàu, vốn dĩ đang là “căn cứ dầu khí” cần nhanh chóng chuyển thành “căn cứ” liên hợp phụ trách nghiên cứu và thăm dò, sử dụng các “hạt báu” của đại dương ở khu vực phía Nam. Đồng thời, Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) nơi dự kiến đặt Trung tâm Lọc, Hóa dầu và Năng lượng quốc gia rất nên trở thành “căn cứ” tương tự - đặc trách vùng biển miền Trung.
Ở khu vực vịnh Thái Lan, có thể cả 3 đặc khu Kiên Hải, Phú Quốc và Thổ Chu đều là “ứng viên” cho các “căn cứ khai mỏ biển sâu”. Ngay cả đặc khu Trường Sa, ngoài chức năng quốc phòng vẫn đủ điều kiện và cần thiết là “tiền đồn” ngoài khơi xa cho ngành công nghiệp non trẻ và kỳ vĩ này.
Để nắm bắt và làm chủ ngành kinh tế - kỹ thuật mới lạ ấy, Việt Nam rất cần sự tham gia chủ động của các viện nghiên cứu, trường đại học cùng các doanh nghiệp liên quan địa chất, dầu khí và dịch vụ kèm theo. Ngay từ bây giờ, trong bản đồ quy hoạch đất đai các đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển và các hải đảo, Nhà nước cần chú ý ưu tiên để dành “đất nạc” cho các cơ sở khoa học, đào tạo và sản xuất, góp phần xây dựng những mũi nhọn kinh tế hiện đại.
Các “siêu đô thị” mới như Hải Phòng, Đà Nẵng và TP.HCM, với lực lượng khoa học và kỹ thuật hùng hậu, đều đủ điều kiện trở thành “lò luyện kim” khai phá ngành Seabed mining tầm cỡ Đông Nam Á. Đầu tư lớn cho khai mỏ biển sâu cũng sẽ là một trong những cách khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia trên các vùng lãnh hải.
Sinh học biển và năng lượng tái tạo
Không chỉ là kho báu của các loại khoáng sản quý giá, các vùng biển Việt Nam còn là nhiều “vườn sinh học” trinh nguyên chưa khám phá hết. Nói với người viết, TS. sinh học Vũ Thị Quyền (Đại học Văn Lang) cho rằng các chuyên gia sinh học ở TP.HCM và các đô thị lớn không thể chỉ hoạt động trên bờ. Từ lâu bà mong ước tại Côn Đảo, Phú Quốc và Trường Sa sẽ thiết lập các trạm nghiên cứu, phòng thí nghiệm để thu thập và phân tích các loài vật dưới biển.
TS. Quyền cho biết Việt Nam chưa có các quy định chặt chẽ về bảo vệ sinh vật biển, cho nên việc nghiên cứu trước nhất phải nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, giữ gìn các loài giống quý cho mai sau. Kế đến là nghiên cứu sử dụng, tái tạo chúng cho nhiều mục tiêu mới, đặc biệt để làm thực phẩm và dược phẩm chất lượng cao.
Không xa Việt Nam, Singapore mặc dù chỉ có khoảng 5 triệu dân vẫn tiên phong phát triển công nghệ sinh học biển - Marine biotechnology. Trong 10 năm trở lại đây, đảo quốc hạt tiêu đã mở ra 8 cơ sở nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành với kỳ vọng đáp ứng phần lớn nhu cầu tự túc thực phẩm dinh dưỡng cho dân cư. Mặt khác, Singapore còn đặt mục tiêu là trung tâm nghiên cứu phát triển sinh học biển nhiệt đới hàng đầu châu Á. Từ nhiều năm nay, Chính phủ Singapore sử dụng trọn vẹn một hòn đảo nhỏ mang tên St John để đặt Trung tâm nghiên cứu Loài vật biển và Phòng thí nghiệm Biển quốc gia.
Việt Nam có nhiều vùng biển đủ sức “đỡ đầu” những phòng thí nghiệm, trang trại và nhà máy tinh chế để phát triển ngành Marine biotechnology. Các viện nghiên cứu biển và trường đại học thủy sản đặt ở Nha Trang cần mở ra các chi nhánh chuyên sâu đặc thù các vùng biển ở Hạ Long, Đà Nẵng, Phan Thiết, Cần Giờ, Cần Thơ... Nay mai, Nhà nước cùng các doanh nghiệp công và tư sớm chung tay thiết lập những con tàu nghiên cứu biển đa năng hoạt động trên khắp các lãnh hải. Hai “đội quân” sinh học biển và khoáng sản biển nếu biết phối hợp hiệu quả sẽ gia tăng sức mạnh khoa học - công nghệ trên biển của Việt Nam.
Một tài nguyên khác từ “kho báu” biển khổng lồ của Việt Nam đang lộ diện là điện gió và điện thủy triều, được coi là “mỏ vàng xanh”. Theo Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam, nhờ ứng dụng công nghệ mới thăm dò bằng vệ tinh, tổng tiềm năng điện gió ngoài khơi của nước ta được xác định là 1.068 GW, cao hơn rất nhiều so với ước tính trước đó của Ngân hàng Thế giới là 600 GW (2). Sử dụng nguồn năng lượng ấy, Việt Nam sẽ có “bửu bối” đảm bảo đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Hơn thế nữa, Việt Nam còn có dư “vàng xanh” để xuất khẩu và đẩy mạnh hình thành công nghiệp năng lượng tái tạo. Từ năm 2022, Singapore đã đặt hàng mua điện của nước ta, chủ yếu là điện gió ngoài khơi. Hai bên sẽ khai thác điện gió ở vùng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó có công trình xây dựng một đường cáp ngầm cao thế dưới biển, dài khoảng 1.000 km để đưa điện đến Singapore. Không những thế, các “đại gia năng lượng” là tập đoàn Sembawang (Singapore), Petronas (Malaysia) và Petro Việt Nam đã ký kết khai thác điện gió vùng biển Nam Trung để sử dụng cho cả 3 nước.
“Đội hình Lạc Long Quân” ra biển
Câu chuyện Lạc Long Quân đem 50 con ra biển để kiến tạo đất nước không chỉ là hình tượng trong huyền sử. Niềm kiêu hãnh chinh phục biển của tổ tiên xứng đáng được tiếp nối bởi đội hình các hạm đội hải quân và các ngành kinh tế biển mũi nhọn tinh nhuệ.
Trong “đội hình Lạc Long Quân” ra biển của thế kỷ XXI, các “đô thị trùng dương” vừa là căn cứ xuất phát, vừa là cơ sở hậu cần để thu hút tài lực và tài trí, cung cấp công nghệ và nhân tài. Từ năm 2018, Việt Nam đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết 36 của Trung ương Đảng). Giờ đây, với việc tổ chức lại địa giới hành chính và quản lý chính quyền hai cấp, kế hoạch chiến lược trên sẽ phải cập nhật, bổ sung để đáp ứng tình hình mới. Qua đó vai trò, định hướng của các đô thị ven biển và trên biển rất cần tái định vị và bổ sung nguồn lực.
Bình minh trên biển Nha Trang. Đô thị vùng biển Nha Trang - Ninh Hòa không chỉ nhằm phát triển du lịch mà còn cần thiết là nơi đặt nhiều viện nghiên cứu, đại học, phòng thí nghiệm, trang trại phục vụ công nghệ sinh học biển
Các cảng thị, bến cảng, cơ sở hàng hải, ngư nghiệp, khai khoáng, năng lượng và du lịch cùng các viện nghiên cứu, đại học, trường dạy nghề liên quan kinh tế biển vẫn cần được khảo sát, xếp đặt lại theo không gian và tầm nhìn của kỷ nguyên mới. Việc liên kết, hợp tác giữa các “đô thị trùng dương” trong, ngoài nước nên được khuyến khích mở rộng đa dạng với hình thức hiệp hội và liên minh nghiên cứu, kinh doanh. Các dự án xây dựng, hội nghị, hội chợ chuyên đề biển do trung ương và địa phương tổ chức sẽ góp phần giới thiệu các ý tưởng cũng như xúc tiến các cơ hội thông tin minh bạch, mời gọi đầu tư và làm ăn minh bạch. Chính quyền các cấp, giới truyền thông, các nhà khoa học và doanh nhân là các “chủ soái” tham gia các hoạt động quảng bá, xây dựng ý thức quốc gia biển, kinh tế biển hướng cho toàn xã hội và nhất là giới trẻ.
TS. Hồ Thanh Phong, nguyên hiệu trưởng trường Đại học Quốc tế thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM, cho biết hệ thống đại học ở các nước tiên tiến đã có “sản phẩm” cho hơn 29 ngành liên quan đến biển, còn các đại học Việt Nam chỉ mới đào tạo được một ít ngành (kỹ thuật hàng hải, dầu khí, logistics, du lịch...) và còn ở quy mô nhỏ và vừa. Do vậy, ông đề nghị kinh tế biển là cơ hội để các trường mở rộng liên kết trong nước và quốc tế, kết hợp liên ngành và chuyên sâu, đáp ứng các nhu cầu cao. Trong đó với đại học tư, Nhà nước nên khuyến khích và hỗ trợ nắm bắt ngay các ngành mũi nhọn của kinh tế biển chứ không nên chỉ ưu tiên trường công.
Biển đem đến nhiều nguồn lợi vô đối nhưng còn đặt ra nhiều thách thức lớn, nhiều nguy cơ gay gắt như biến đổi khí hậu và nước biển dâng, môi trường biển ô nhiễm. Tổ chức Quản lý Đáy biển quốc tế - ISA đã đưa ra lời kêu gọi mang tính cảnh báo cao độ: “Chúng ta không thừa hưởng Trái đất từ tổ tiên mà chúng ta chỉ mượn từ con cháu”. Quả thật, ngày nay các “đô thị trùng dương” và “đội hình Lạc Long Quân” ra biển không thể chỉ khai thác mà còn phải biết giữ gìn, vun đắp các nguồn gia sản dài hạn của tương lai. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương từng mơ ước 3 miền có ngày “Hội trùng dương”. Ngày ấy, những con người quen sông biển gặp nhau để “pha hòa sóng lan bốn phương trời, đem tự do tranh đấu bao người, cho quê hương ấm no muôn đời”.
Năm mươi năm qua, “Hội trùng dương” đã đi vào hiện thực và sẽ còn thăng hoa hơn nữa khi có được các kết quả, thành tựu vững chắc của “đội hình Lạc long Quân” chinh phục đại dương, làm giàu đất nước.
Bài và ảnh: Phúc Tiến
__________________
(1) Theo bài viết “Tìm kiếm, thăm dò khoáng sản rắn ở đáy Biển Đông và khả năng thực hiện của Việt Nam” trên vasi.mae.gov.vn ngày 31.3.2025
(2) Theo bài viết “Việt Nam phát hiện tiềm năng điện gió ngoài khơi hơn 1.000 GW nhờ vệ tinh siêu hiện đại” trên moitruong.net.vn ngày 25.4.2025