Nhóm kia có ba người. Ai người miền Nam đều có thể nhận biết dễ dàng nhóm ba người ấy là dân Sài Gòn trước 1975. Họ ăn vận đúng điệu, đi thể dục thì quần short áo pull, giày thể thao có vớ, và nói năng chừng mực. Sau cữ thể dục bằng xe đạp, họ thường ngồi lại một quán cà phê cóc; cái bàn ấy, vị trí ấy cô chủ quán dành cho họ ngày mưa cũng như ngày nắng.
Nhóm nọ co giãn từ sáu đến mười người. Một quá cà phê cóc khác, gần đó. Cũng vị trí ấy, tán bàng ấy, bà chủ quán dành cho họ mỗi sáng một bình thủy nước sôi, một bộ ấm trà Thái Nguyên pha kiểu Bắc. Rất dễ nhận biết họ là ai. Là vì họ ăn vận tùy tiện, đôi người còn hay khạc nhổ, họ ồn ào phán kiểu: “Tay Pu-tin nầy ghê”, hoặc “Mấy tay tự ứng cử đừng tưởng bở!”. Họ là thành viên tổ hưu, là trưởng hoặc phó tổ dân phố... tóm lại, họ thong dong với lương hưu và gia đình họ có thể đã tham gia lấn chiếm vỉa hè, cơi nới chuồng sắt ở ban công và vợ con họ thản nhiên mỗi sáng xả nước tưới cây xuống người đi đường bên dưới. Ở họ có tác phong của phe ưu thế, họ biết thụ hưởng hoặc phán xét mọi chuyện bằng cái quyền của người trong guồng.
Buổi thể dục sáng của chúng tôi thường đi giữa hai nhóm người đó. Nhiều khi chồng tôi sà vào nhóm trà Bắc tung hứng với họ chuyện nước chuyện dân hay chuyện đàn bà, chuyện sức khỏe. Con người trong guồng không cần giữ ý, xổng ra, thả sức “chém gió”.
Cũng không ít lần cả hai vợ chồng tôi cùng ngồi xuống với nhóm ba người kia. Không ở cùng block nhưng cùng khu chung cư. Nhóm ba người nhận ra chúng tôi từ mặt báo. Lần đầu tiên ấy họ cùng đứng lên chào hỏi, làm quen, tự giới thiệu và chạy lấy thêm ghế nhã ý mời cà phê. Không phải chúng tôi chưa từng ngả ngớn bạn bè với những người vốn là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa chịu đựng cải tạo. Bạn bè phía ấy không nhiều nhưng cũng đủ thân để hỏi han cặn kẽ chuyện thời đó, cùng trà dư tửu hậu chuyện thế sự nhân sinh và cùng thở dài khi nói đến hòa hợp hòa giải. Những người ấy có người đã đi hẳn, có người đi đi về về và có người đang “trụ” tuổi già lại với Sài Gòn.
Chủ kiến từ những bài báo của chúng tôi được nhóm ba người đồng tình và khi đã quen chuyện, họ dần đồng cảm rồi cùng lên tiếng. Cùng nhau hứng khởi khi được bắt chuyện và cùng chân thành trong ý nguyện bạn bè. Thật dễ chịu với những buổi sáng như vậy, ở đó không có người ỷ là thế này thế nọ, ở đó có những tâm tư chung của những người quan tâm tới nước non, bờ cõi, đi ở và sinh kế. Ở đó còn có cô chủ quán ý nhị với những đĩa nhạc làm sống lại cả đoạn phố dài: “Rồi đây qua cơn mê, sông cạn lại thành dòng, suối về ngọt quê hương...”.
Ảnh Thanh Hảo
Chúng tôi nhìn vào mắt nhau tìm thấy sự chan hòa, khắc khoải.
Năm đầy năm, nhóm ba người nay đã hao khuyết, một người do sức yếu không thể đi đi về về giữa Mỹ và Việt Nam thường được. Với hai người “trụ” lại chết sống với quê nhà, mỗi sáng chúng tôi chào nhau ân cần, đôi khi dừng lại thông tin về bài nọ bài kia tâm đắc trên mạng, đọc đi đọc đi, ráng thể dục đều để đừng phải vào bệnh viện, nhá. Đã hiểu ý nhau từng câu ngắn, ví như vì sao “đừng để phải vào bệnh viện!”.
Nhóm trà Bắc vẫn nguyên và không có ai bắt chuyện với nhóm ưa Trầm Tử Thiêng, Trịnh Lâm Ngân... Chắc chắn họ không quan tâm tác giả những ca khúc vẫn vẳng tới chỗ họ là ai, đã là gì và đang sống thế nào, ở đâu. Họ an nhiên, hồn nhiên, tự nhiên và hay ngạc nhiên: “Đám Sài Gòn cũ kéo nhau đi chi đông vậy ta? Qua bển cũng bán hàng ăn cũng làm móng, tha hương chi cho khổ?”.
Sài Gòn cũ đã rỗng, chúng tôi nói với nhau, ai muốn biết văn hóa Sài Gòn gốc chắc phải sang Mỹ. Hơn 40 năm rồi mà hai nhóm người của một chung cư chung số phận sắp bị phá bỏ, vẫn là hai nhóm thắng thế và yếu thế sống cạnh nhau, đi lướt qua nhau mà không có gì khác ngoài xa lạ và xa cách.
Điều gì ngáng trở chúng ta? Đằng sau có ai không?, một bạn văn của chúng tôi giờ đã theo con định cư ở Mỹ từng thảng thốt đặt tên một truyện ngắn của mình về chuyện gà cùng một mẹ như vậy đó. Vâng, đằng sau có ai không mà chúng ta hòa hợp và hòa giải khó khăn như thế?
Dạ Ngân
(Bài viết đăng trên Tạp chí Người Đô Thị số 48, phát hành ngày 29.4)