Trong xu thế này, chủ trương đưa các hộ kinh doanh lên doanh nghiệp đang được triển khai ở một số địa phương. Xét từ góc độ thành thích thực hiện, nếu chỉ một phần của hơn 5 triệu hộ kinh doanh cá thể đang tồn tại chuyển thành doanh nghiệp thì mục tiêu có 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2020 chắc chắn sớm đạt được.
Tuy nhiên, câu chuyện này đang gây tranh cãi trong giới phân tích, bình luận chính sách, rằng đó đơn thuần là một biện pháp chính sách hay một hành vi cưỡng chế thi hành pháp luật? Bởi, mặc dù không được luật nào quy định, Nghị định 78/2015 về đăng ký doanh nghiệp bắt buộc “hộ kinh doanh cá thể sử dụng mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp”. Tiếp đó, Nghị định 50/2015 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch - đầu tư quy định xử phạt từ 3 đến 5 triệu đồng đối với hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên mười lao động trở lên, đồng thời buộc hộ kinh doanh đó phải đăng ký thành lập doanh nghiệp!
Đương nhiên, từ góc độ pháp quyền, cũng cần làm rõ là các quy định của hai nghị định nói trên có vi hiến và trái luật hay không, trong khi điều 33 của Hiến pháp 2013 đã long trọng tuyên bố: mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề (chứ không phải hình thức tổ chức) mà pháp luật không cấm. Đồng thời, theo nguyên tắc, nghị định chỉ được quy định việc thi hành luật mà không được tạo mới các chế định ràng buộc đối với công dân và rõ ràng hiện nay, không có một luật nào cấm một chủ thể kinh doanh không được tuyển dụng quá số lượng lao động nhất định, cũng như bắt buộc một công dân muốn kinh doanh phải đăng ký thành lập doanh nghiệp cả.
Một quy định trong văn bản pháp quy trái luật sẽ phải bị hủy bỏ theo các quy trình do luật định. Mỗi hộ kinh doanh cá thể khi thấy quyền tự do kinh doanh theo luật định của mình bị xâm phạm có thể khởi kiện ra tòa án. Tuy nhiên, thực tiễn nhiều năm qua chưa ghi nhận việc các cơ quan chính quyền địa phương xử phạt hay cưỡng chế thi hành đối với người dân liên quan đến các quy định pháp luật nói trên.
Công dân nên thành lập doanh nghiệp khi khởi sự kinh doanh
Bản chất của hoạt động kinh doanh là sáng tạo và phát triển không ngừng trong môi trường cạnh tranh. Để tồn tại, không có cách nào khác, mỗi chủ cơ sở kinh doanh luôn luôn phải làm sao để có thể hấp thụ được từ xã hội và thị trường hai nguồn lực cơ bản, cũng đồng thời có tính cạnh tranh, đó là tài năng quản trị và vốn tài chính. Nếu thiết lập cơ sở kinh doanh theo hình thức doanh nghiệp hay công ty, các lợi thế để thỏa mãn các yêu cầu nói trên sẽ được bảo đảm và phát huy.
Chẳng hạn, đó là tính chặt chẽ và rành mạch về cấu trúc tổ chức, tinh thần dân chủ và sự chuẩn mực, minh bạch và chuyên nghiệp trong quản trị - điều hành, qua đó mỗi doanh nghiệp sẽ luôn luôn tạo được niềm tin ở mức độ cao cho xã hội, đặc biệt là các ngân hàng, chủ đầu tư tài chính và người tiêu dùng, đồng thời vẫn duy trì khả năng đổi mới và ứng phó linh hoạt với các biến động của thị trường.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các doanh nghiệp với mô hình tổ chức và trình độ quản trị đạt chuẩn sẽ có khả năng tương tác kinh doanh và tăng cường sức cạnh tranh tốt hơn.
Bên cạnh đó, từ phía các cơ quan quản lý nhà nước, hình thức doanh nghiệp cũng luôn luôn được ưa chuộng và khuyến khích bởi khả năng dễ kiểm soát của nó, tiện cho việc quản lý, đặc biệt là quản lý thuế.
Tại sao số lượng hộ kinh doanh cá thể luôn áp đảo doanh nghiệp?
Có một cách hiểu nhầm cho rằng hộ kinh doanh đồng nghĩa với quy mô nhỏ bé, sự manh mún, thô sơ, gắn với động cơ hay tầm nhìn ngắn hạn, nhất thời. Điều này không đúng bởi Luật Doanh nghiệp cho phép bất cứ ai, dù với bất cứ khả năng nguồn lực thế nào cũng có thể đăng ký thành lập doanh nghiệp, với hai hình thức phổ biến là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần ngay từ lúc khởi nghiệp (trừ một số ít ngành nghề có quy định về vốn pháp định). Thực tế cũng cho thấy, tuyệt đại đa số các doanh nghiệp đã đăng ký ở Việt Nam có quy mô bé nhỏ, cả về vốn và lao động, trong đó nhiều doanh nghiệp có năng lực quản trị và kinh doanh rất hạn chế ở mức tương đương hoặc thậm chí thấp hơn hộ kinh doanh cá thể.
Hộ kinh doanh là mô thức hoạt động kinh tế có truyền thống lâu đời nhất. Ảnh: DS
Hộ kinh doanh về thực chất bắt nguồn từ kinh doanh gia đình, là một mô thức hoạt động kinh tế có truyền thống lâu đời nhất, dù ở Việt Nam hay trên thế giới. Hầu hết các thương hiệu doanh nghiệp nổi tiếng toàn cầu đều đến từ các gia đình doanh nhân vĩ đại như Ford và Walmart (Mỹ), Siemen và Benz - Daimler (Đức), Toyota và Honda (Nhật Bản) hay Samsung và Huyndai (Hàn Quốc). Mặc dù có những hạn chế nhất định về phương diện quản trị doanh nghiệp theo các tiêu chí lý thuyết, doanh nghiệp gia đình thường có động lực phát triển và tính ổn định rất cao bởi kinh doanh không chỉ gắn với lợi nhuận mà còn cả truyền thống, uy tín và danh dự cá nhân của gia đình và dòng họ.
Tại các nước châu Á, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam, kinh doanh gia đình phát triển không có gì lạ bởi các đặc trưng văn hoá truyền thống của dân tộc, hơn nữa bản thân nó đã luôn luôn là một thành tố quan trọng và bền vững của nền móng kinh tế quốc dân. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thống kê chưa đầy đủ đã cho thấy các hộ kinh doanh cá thể đang tạo ra tới 7,9 triệu việc làm, trong khi con số này của tất cả các doanh nghiệp cộng lại vào năm 2015 là 12,9 triệu. Mặc dù ngành thuế đánh giá sự đóng góp cho ngân sách của các hộ kinh doanh cá thể khá hạn chế, chỉ chiếm khoảng 2% (chưa kể các hộ gia đình và hộ kinh doanh trong nông nghiệp), tuy nhiên, cần hiểu là vai trò kinh tế-xã hội nói chung của mỗi khu vực kinh tế và sự đóng góp của nó vào ngân sách của chính quyền luôn luôn là hai phạm trù khác nhau. Nói một cách khác, đó là sự so sánh các sự việc không cùng thứ, hạng.
Trong các khảo sát được thực hiện đối với các hộ kinh doanh cá thể, phần lớn các chủ hộ đều cho rằng lý do họ không muốn đăng ký thành lập doanh nghiệp bởi e ngại các yêu cầu rắc rối về thủ tục hành chính và chế độ báo cáo, nhất là báo cáo tài chính và thuế, mà họ khó đáp ứng nổi do cách quản trị gia đình và các tập quán kinh doanh truyền thống giữa họ và các bạn hàng. Họ cũng e ngại cả việc nếu bị coi là doanh nghiệp, tức kinh doanh lớn, thì sẽ bị thường xuyên kiểm tra, thanh tra mà kết quả là gây tốn kém thêm về cả thời gian và tiền bạc v.v..
Thêm nữa, nhiều hộ kinh doanh cho rằng họ vẫn có thể sản xuất, kinh doanh rất tốt mà không cần “lên doanh nghiệp”. Vậy thì, tại sao cả về quy định pháp luật lẫn chủ trương chính sách, chúng ta lại cần vận động hay ép buộc các hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành doanh nghiệp, để đến mức quy họ vào đối tượng vi phạm pháp luật bằng một lý do rất khó hiểu và phi lý là sử dụng “mười lao động trở lên”? Trong khi đó, đối với doanh nghiệp thì lại không có quy định nào yêu cầu phải tuyển dụng số lao động tối thiểu!
Giải pháp tối ưu
Cho đến nay, chúng ta đã nỗ lực để ban hành và hoàn thiện Luật Doanh nghiệp như một hành lang pháp lý dành cho các loại hình tổ chức kinh doanh định hướng chuyên nghiệp và ít tính truyền thống. Tuy nhiên, kinh doanh luôn là một phần không tách rời của đời sống thực của con người và xã hội. Với trên 5 triệu hộ kinh doanh cá thể đang tồn tại như một trạng thái thực tế và tất yếu, tại sao Nhà nước không nghiên cứu để xây dựng và ban hành Luật về hộ kinh doanh thay cho các nghị định hiện hành? Trên cơ sở các hành lang pháp lý như vậy, hãy để người dân và nhà doanh nghiệp lựa chọn. Pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh doanh, suy cho cùng, chỉ có hiệu lực thật sự và phát huy được hiệu quả cao nhất một khi nó hợp thức những gì đang tồn tại hợp lý trong cuộc sống, hơn là phản ánh những sáng tạo chủ quan của con người.
Nguyễn Tiến Lập - Luật sư Văn phòng NH Quang & Cộng sự, trọng tài viên VIAC