Cầm tay Thế giới:

Nửa thế kỷ một ân tình thầm lặng

 08:48 | Thứ bảy, 01/02/2025  0
Hơn 50 năm sau khi cắm cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam trên chóp tháp nhà thờ Đức Bà Paris, những người bạn của nhân dân Việt Nam đã đặt chân đến đất nước mà họ từng ủng hộ vô điều kiện, thậm chí chấp nhận hy sinh cả sinh mạng để cất lên tiếng nói bảo vệ lẽ phải, chống lại cái ác và sự tàn bạo.

Trong lịch trình 5 ngày ngắn ngủi thăm Việt Nam (15 - 19.11.2024), Olivier Parriaux và Bernard Bachelard - hai trong ba người Thụy Sĩ cắm cờ trên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris đêm 18 rạng ngày 19.1.1969 - đã dành cho chúng tôi cả buổi sáng và xế chiều ngày cuối cùng.

“Nếu không phải trở về khách sạn để xếp vali cho chuyến bay về Thụy Sĩ chiều tối nay thì chúng ta không phải nói lời tạm biệt lúc 14 giờ. Cảm ơn cuộc gặp gỡ thú vị và khác lạ của các bạn ở Tạp chí Người Đô Thị. Các bạn đã cho chúng tôi một kỷ niệm thật đẹp trong chuyến đi này”, Olivier nói lúc chia tay. 

Những nhân duyên hội ngộ

Hai năm trước, ngày 27.1.2023, tròn 50 năm Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết. Dịp này Nhà xuất bản FAVRE, Lausanne (Thụy Sĩ) đã ra mắt quyển sách LE VIETCONG AU SOMMET DE NOTRE - DAME. Quyển sách vén màn bí mật được cất giấu hơn 50 năm qua: Ai đã cắm lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMN) trên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris đúng vào ngày diễn ra phiên họp trù bị của vòng đàm phán bốn bên Hội nghị Paris (19.1.1969)? 

Quyển sách vén màn bí mật 55 năm trước


Đó chính là 3 tác giả của quyển sách: Bernard Bachelard, Noé Graff và Olivier Parriaux. Sự kiện này từng gây chấn động truyền thông phương Tây và Mỹ. 

Gần như cùng lúc với ra mắt sách tại Thụy Sĩ, một trích đoạn của cuốn sách với sự chuyển ngữ của TS. Trần Hải Hạc đã được đăng tải trên giai phẩm Người Đô Thị Tết 2023. Kể từ giây phút đó, các tác giả mặc định mình có rất nhiều bạn bè ở Việt Nam - chính là những bạn đọc Người Đô Thị. Vì vậy khi biết trong lịch trình chuyến thăm Việt Nam giữa tháng 11.2024 có cuộc gặp gỡ thân tình với những người làm báo ở Người Đô Thị, các ông rất vui và mong đợi gặp mặt. 

Đi cùng Olivier và Bernard hôm ấy có hai bạn thân, cũng là hai nhân vật nổi tiếng: giáo sư Nguyễn Ngọc Giao (Việt kiều Pháp) phiên dịch cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris và bà Trần Tố Nga, nguyên đơn trong vụ kiện 14 công ty hóa chất Mỹ đã sản xuất, cung cấp chất độc da cam/dioxin cho quân đội nước này sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. 

Kể về tình bạn thân thiết của họ, giáo sư Nguyễn Ngọc Giao cho biết: “Cũng là nhân duyên. Khi các ông viết xong cuốn sách thì muốn tìm một người Việt Nam để kiểm chứng lại một số thông tin. Người được các ông nghĩ tới là anh Trần Hải Hạc (chồng đạo diễn Việt Linh). Khi liên lạc với nhau, biết các vấn đề cần tham vấn thuộc lĩnh vực chính trị thì anh Hạc giới thiệu họ với tôi. Một cơ duyên khác là trong bản thảo có những trang viết về hậu quả chiến tranh hóa học và cuộc đấu tranh của chị Tố Nga. Thế là tôi giới thiệu chị Tố Nga với họ. Trong một thời gian khá dài trước khi gặp mặt, chúng tôi chỉ liên lạc qua email nên mọi người nói đùa đây là mối tình email”. 

Trong cuộc gặp không lễ nghi khách sáo mà ấm áp thân tình ấy, những người bạn Thụy Sĩ vô cùng thú vị khi biết nơi họ đang ngồi - khách sạn Continental sắp bước sang tuổi 145, là khách sạn xưa nhất Việt Nam còn lại đến nay. Nơi đây đã từng lưu dấu chân những con người rất nổi tiếng của thế giới: nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagore, vua hề Charlie Chaplin, tác giả tiểu thuyết Người Mỹ trầm lặng - Graham Greene, đạo diễn Phillip Noyce... Olivier hóm hỉnh kể ngày 15.11 khi các ông đặt chân đến TP.HCM, báo chí cả nước đồng loạt đưa tin về “những người treo cờ Việt cộng trên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà” giống y như báo chí Pháp hơn 50 năm trước. Ngay sau đó là những buổi viếng thăm, làm việc, gặp gỡ giao lưu liên tục với các cơ quan ban ngành, những bữa tiệc chiêu đãi long trọng... 

“Chúng tôi rất xúc động và thật sự không hình dung được sự đón tiếp nồng hậu như vậy. Đặc biệt là cuộc gặp gỡ với các bạn Người Đô Thị. Không ồn ào rình rang mà rất chân thành và thấu hiểu”, Olivier bày tỏ. Ông cho biết không thể ở lại Việt Nam lâu hơn vì đang tham gia chương trình giúp đỡ người dân Ukraina và dải Gaza đang oằn mình trong bom đạn, giống như nhân dân Việt Nam ngày trước. Đã vào tuổi tám mươi nhưng trái tim những người bạn lớn vẫn đầy nhiệt huyết, luôn chọn đứng về phía lẽ phải, chống lại cái ác và sự tàn bạo.  

Chuyện kể từ người trong cuộc

Dù đã chuẩn bị câu hỏi, câu trả lời qua email nhưng khi ngồi đối diện nhau, chúng tôi gần như quên hẳn những thao tác thuần túy xã giao và nghiệp vụ ấy. Được nghe chính những người trong cuộc kể lại, được ngồi thật gần những con người bằng xương bằng thịt nhưng lại có những hành động can đảm phi thường ấy đã cho chúng tôi thật nhiều cảm xúc.

Trong ba thanh niên hồi đó, Bernard lớn tuổi nhất - 26 tuổi, Olivier 25 và Noé 24 tuổi. Khởi điểm chính trị của 3 người khác nhau nhưng họ có chung lý tưởng ủng hộ tiến bộ xã hội và ủng hộ nhân dân các nước bị áp bức giành độc lập. Bernard là thành viên đảng Xã hội Thụy Sĩ, Noé là đảng viên đảng Cộng sản còn Olivier là người theo đạo Tin lành. Sau đó cả ba tham gia Liên đoàn Mác xít Thụy Sĩ. Khi ấy phong trào đấu tranh ủng hộ nhân dân Việt Nam sục sôi ở các nước châu Âu và ngay trong lòng nước Mỹ. 

Hội nghị Paris về Việt Nam khai mạc tại thủ đô nước Pháp vào ngày 13.5.1968. Tuy nhiên khi ấy chỉ có đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ. Sau một thời gian đấu trí căng thẳng, hai bên đã đồng ý về sự tham gia của MTDTGPMN và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Theo kế hoạch, hội nghị bốn bên khai mạc ngày 25.1.1969 nhưng trước đó vào ngày 19.1.1969 diễn ra phiên họp trù bị. 

Ông Olivier Parriaux tiết lộ thêm nhiều chi tiết trong câu chuyện treo cờ 50 năm trước trong buổi gặp gỡ Người Đô Thị.


Trả lời câu hỏi tại sao lại chọn Nhà thờ Đức Bà Paris để treo cờ, những người bạn Thụy Sĩ cho rằng “đối với chúng tôi Nhà thờ Đức Bà nói riêng và tất cả các nhà thờ nói chung đều là biểu tượng cao quý. Và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng cao quý. Cho nên không hề có mâu thuẫn, xung đột giữa hai sự cao quý ấy. Khi quyết định treo cờ MTDTGPMN trong ngày 19.1.1969, chúng tôi muốn đạt được 3 điều: góp phần vào sự thừa nhận quốc tế đối với MTDTGPMN, loại trừ chính quyền Sài Gòn của ông Nguyễn Văn Thiệu và “chào mừng tên tội phạm chiến tranh” Henry Kissinger (Cố vấn An ninh quốc gia, người dẫn đầu phái đoàn Mỹ)”.

Họ phân công nhau: Bernard và Olivier sẽ leo lên treo cờ, Noé lái xe chờ sẵn để khi xong việc thì đón đồng đội quay về Thụy Sĩ. Trong quyển sách, các tác giả chia sẻ: “Ngày Thứ bảy 18.1.1969 này, không sử dụng thiết bị leo núi, chỉ bằng tay không, chúng tôi sẽ leo lên chóp tháp Viollet-le-Duc của Nhà thờ Đức Bà trong ban đêm, và treo lên thánh giá ở trên đỉnh cao 96m một lá cờ lớn của MTDTGPMN mà không hề biết chắc là có về trở lại được hay không...”. Điều đó cho thấy họ cũng đã dự liệu tình huống hiểm nguy, khả năng xấu nhất là tính mạng bị đe dọa. 

Trong thực tế điều đó đã diễn ra. Olivier nhớ lại cảm giác lúc ấy: “Thật kinh ngạc khi chúng tôi phát hiện đường lên đỉnh chóp tháp không liền lạc mà có một khoảng trống chừng 2m. Chúng tôi phải nhảy qua khoảng trống ấy ở độ cao 35m - đây là điều mà tập bản đồ của thư viện không hề chỉ ra. Trời thì tối. Lưng chúng tôi chạm vô tường của tháp chuông, nghĩa là không có chỗ lùi để chạy đà lấy trớn. Bernard phóng qua dễ dàng vì anh ấy là giáo viên thể dục. Còn tôi thì khó khăn hơn. Nhưng rồi cũng nhảy qua được”. 

Mọi việc hoàn tất khi đã quá nửa đêm, tức là đã bước sang ngày Chủ nhật 19.1.1969. “Nhìn lại phía sau lưng một lần cuối, chúng tôi nhận ra lá cờ to đẹp trong ánh sáng khuếch tán của thành phố. Nó phất phới theo gió, giương rộng ra. Hai giờ sáng, xe chúng tôi đi đến tòa soạn báo Le Monde, số 5 rue des Italiens, chúng tôi nhét bản thông cáo báo chí vào hộp thư của tòa soạn rồi ra về...”.  

Chỉ một giờ sau đó, một nhân viên Sở Công an trên đảo Ile de la Cité phát hiện lá cờ tung bay trên đỉnh của chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris. Nó đã bay ở đó gần 15 tiếng đồng hồ. Phải đến 3 giờ chiều, với sự trợ giúp của máy bay trực thăng, lính cứu hỏa Paris mới gỡ được lá cờ xuống. 

Báo Le Monde ra ngày thứ Hai đã trích đăng thông cáo của họ, đồng thời cũng đăng thông cáo của phái đoàn Việt Nam Cộng hòa dự hội nghị Paris và thông cáo của Văn phòng Tổng giám mục Paris. Trong khi thông cáo của chính quyền Sài Gòn cho rằng việc này do Việt cộng giật dây, xâm phạm nơi thiêng liêng, thì Tổng giám mục Paris khẳng định việc này chỉ đụng tới bên ngoài tòa nhà, không đụng tới nơi thiêng liêng (luật pháp nước Pháp quy định phía ngoài là tài sản của nhà nước, bên trong mới là nơi thiêng liêng của tôn giáo).

Liên tục nhiều ngày, truyền thông thế giới xôn xao về việc cờ MTDTGPMN xuất hiện trên chóp tháp Nhà thờ Đức Bà Paris. Thế nhưng các tác giả của sự kiện này tuyệt nhiên im lặng. Tôi hỏi: “Giả sử lúc đó có tổ chức, cá nhân khác đứng ra tự nhận mình làm thì thái độ của các ông ra sao?”, Olivier cười vui vẻ: “Thực tế cũng đã có nhiều người, nhiều tổ chức lên tiếng tự nhận mình là tác giả, trong đó có một nhà báo từng là đồng chí của chúng tôi trong tổ chức Mác-xít. Một tổ chức khác ủng hộ Việt Nam cũng ra thông cáo tự nhận. Chúng tôi hoàn toàn không cải chính. Chính quyền Pháp biết tỏng không phải họ nên cũng không xử lý gì”.

Thông điệp từ những người tử tế

Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, Noé vắng mặt vì đang bận mùa vụ hái nho. Bernard ít nói chỉ cười thật hiền. Riêng Olivier vẫn nhanh nhẹn, hoạt bát. Các ông được ban tổ chức bố trí ở khách sạn trên đường Nguyễn Trung Trực (quận 1), khi di chuyển dù gần hay xa đều có xe đưa đón. Riêng hôm đến gặp chúng tôi ở Continental, các ông khoe “từ hôm sang Việt Nam đến nay, lần đầu tiên được đi bộ, thích quá”.

Nhìn hai người đàn ông cao lớn thong thả dạo bước trên đường phố Sài Gòn với... hai ly nước mía trên tay, cảm giác thật ngạc nhiên và thú vị. “Lần đầu tiên chúng tôi được uống nước mía. Rất ngon nhưng ly to quá”, Olivier cười. Nụ cười thật cởi mở, thân thiện. Ông cho biết sáng nay vừa được gặp André Menras (tên Việt Nam là Hồ Cương Quyết), người từng có hành động giống như ông và hai người bạn Thụy Sĩ: ngày 25.7.1970, Menras cùng bạn là Jean-Pierre Debris đã leo lên tượng thủy quân lục chiến trước Hạ nghị viện của Việt Nam Cộng hòa (nay là Nhà hát Thành phố) để treo cờ Giải phóng, rải truyền đơn đòi Mỹ và đồng minh rút quân khỏi Việt Nam. 

Dạo bước giữa trung tâm TP.HCM sáng 19.11.2024 (từ trái): ông Bernard Bachelard, Olivier Parriaux, bà Trần Tố Nga, nhà báo Nguyễn Thế Thanh, giáo sư Nguyễn Ngọc Giao.


“Gặp Menras là ước nguyện của những người bạn Thụy Sĩ từ lâu nên họ rất hạnh phúc khi được nghe chính Menras kể lại câu chuyện của mình. Trong chuyến thăm Việt Nam lần này, họ đã đến nơi cần đến, gặp người cần gặp, nói điều cần nói và làm điều cần làm. Tôi có hứa trong vòng 12 tháng tới sẽ làm tài xế đưa Menras sang Thụy Sĩ chơi một chuyến”, giáo sư Nguyễn Ngọc Giao như vui lây với niềm vui của những người bạn.

Với Olivier và Bernard, một may mắn khác trong chuyến đi này là được đến thăm làng Hòa Bình Từ Dũ, ở đó họ đã gặp bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, người đang sát cánh cùng bà Trần Tố Nga trong vụ kiện các công ty hóa chất Mỹ. “Đối với chúng tôi, hai người phụ nữ này thật sự là những anh hùng. Hôm gặp lãnh đạo thành phố tôi có đề đạt nguyện vọng về sự ủng hộ của chính quyền đối với vụ kiện của nạn nhân chất độc da cam. Như các bạn biết, Tòa phúc thẩm Paris đã bác đơn kiện của bà Tố Nga, hiện vụ kiện đang ở giai đoạn giám đốc thẩm và cần một khoản tài chính khá lớn để thuê luật sư chuyên ngành. Khả năng thắng lợi là có nhưng không lớn. Các công ty hóa chất Mỹ đề nghị bà Tố Nga rút đơn kiện thì họ sẽ bồi thường, nhưng vấn đề ở đây không phải là tiền mà là công bằng cho hàng triệu nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam”, Olivier xúc động nói. 

Qua bà Tố Nga, chúng tôi được biết toàn bộ tiền tác quyền của cuốn sách LE VIETCONG AU SOMMET DE NOTRE - DAME đã được các tác giả âm thầm trao tặng Quỹ Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam.

Mong sẽ còn gặp lại nhau

Bernard đã một lần sang Việt Nam 20 năm trước. Đó là phần thưởng cho công việc thiện nguyện về giáo dục-y tế của ông. Còn Olivier là lần đầu. Bà Tố Nga kể khi nhận được lời mời sang thăm Việt Nam, ông khá dè dặt và đã đặt ra hàng trăm câu hỏi với bà như lý do gì mời, đến Việt Nam để làm gì, gặp gỡ ai, đi đến những đâu; quan điểm của Việt Nam về bầu cử Mỹ, về cuộc chiến Nga-Ukraina...? Thậm chí trước ngày lên đường còn nhắn tin hỏi đủ thứ. Thế nhưng chỉ trong thời gian ngắn ở Việt Nam, những băn khoăn, nghi ngại đó đã được cởi bỏ.

Olivier nhắc lại nhiều lần sự cảm kích trước việc đón tiếp trang trọng, nồng nhiệt ở những nơi ông đến. Ông nhận ra lòng biết ơn chân thành của những người Việt Nam hôm nay trước hành động của mình cách nay hơn nửa thế kỷ.

“Bộ ba treo cờ” (từ trái): Olivier Parriaux, Bernard Bachelard và Noé Graff. Ảnh TL


Và trước bữa ăn trưa chia tay, trong một phút giây bất chợt sau khi nghe tiếng đàn của nghệ sĩ cello Vũ Hồng Ánh - khách mời của chúng tôi, Olivier cảm hứng kể cho chúng tôi nghe “một câu chuyện chưa từng kể với ai”. Ông nói: “Trước khi treo cờ ở Nhà thờ Đức Bà Paris, chúng tôi đã hai lần tập dượt cắm cờ trên đỉnh các tháp nhà thờ lớn ở Lausanne quê hương mình và Berne (thủ đô hành chính của Thụy Sĩ).

Trong lần treo cờ ở nhà thờ lớn Lausanne hưởng ứng cuộc biểu tình ngày 22.6.1968 của toàn Thụy Sĩ ủng hộ Việt Nam, chúng tôi quấn lá cờ trong người trốn trong nhà thờ, đến đêm thì trèo lên đỉnh cao để cắm cờ. Đúng lúc ấy bỗng có tiếng nhạc trầm bổng vang lên. Thì ra ông nhạc sĩ phụ trách cây đại phong cầm của nhà thờ bắt đầu tập dượt chuẩn bị cho buổi lễ ngày hôm sau. Chúng tôi leo lên cắm cờ trong tiếng nhạc thánh lễ ấy, có cảm giác hành động của mình được cổ vũ, ngợi ca. Tôi chưa từng kể với ai điều này. Cảm ơn các bạn về buổi đón tiếp không lễ nghi nhưng rất ấm áp, thân tình khiến tôi phải nói ra một điều... bí mật”.  

Rất cảm kích trước tình cảm quý mến ấy, nhà báo Nguyễn Thế Thanh ân cần nắm chặt tay những người bạn: “Tôi nghĩ rằng chính tình bạn, sự chân thành đã đưa chúng ta đến với nhau. Hành động dũng cảm của các ông hơn 50 năm trước đã nói rằng dân tộc chúng tôi xứng đáng với sự mạo hiểm đó, với sự dũng cảm đó. Chúng tôi rất vui mừng được gặp các ông ở đây bằng xương bằng thịt chứ không chỉ qua những bài báo. Hy vọng câu chuyện ly kỳ của các ông sẽ sớm được chuyển ngữ sang tiếng Việt và nếu như điều đó xảy ra, chúng tôi tin rằng sẽ lại được gặp các ông ở Việt Nam. Cho chúng tôi gởi lời thăm sức khỏe tới Noé. Mong sớm được gặp lại những người bạn quý”. 

Cũng như bà Thế Thanh, chúng tôi hy vọng thời gian, sức khỏe, tuổi tác sẽ không ngăn cản mong ước đó. 

“Việc làm của chúng tôi là chính nghĩa”

Vì sao phải đợi đến hơn 50 năm sau các ông mới quyết định công khai việc làm của mình? 

Chúng tôi không hề muốn lên tiếng nhận trách nhiệm về hành động này hoặc kể lại câu chuyện. Chỉ khi chóp tháp nhà thờ Đức Bà Paris cháy và sụp đổ vào tháng 4.2019, chúng tôi mới ý thức sự cần thiết quay trở lại một nửa thế kỷ, kể lại câu chuyện, trình bày những động cơ của chúng tôi lúc ấy.

Khi bắt đầu hành động, các ông có nghĩ đến hiểm nguy và thất bại? 

Chúng tôi đã lường trước và chấp nhận. Nguy cơ lớn nhất là nếu trượt chân rơi từ trên cao thì chắc chắn ảnh hưởng đến tính mạng. Song nguy cơ ấy chẳng là gì so với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. 

Nếu bị bắt, chắc chắn cũng sẽ bị xử lý rất nặng chứ?

Chúng tôi biết sự trừng phạt không phải là máy chém (cười). Đứng về pháp lý thuần túy thì vi phạm lớn nhất của chúng tôi là phá hoại công sản khi chúng tôi đã cưa một số bậc thang lúc leo trở xuống nhằm ngăn cản những người muốn leo lên gỡ lá cờ.

Sau khi đến Việt Nam, suy nghĩ, tình cảm của các ông đối với đất nước, con người Việt Nam có khác trước?

Chúng tôi rất xúc động trước sự đón tiếp nồng nhiệt của các bạn và những gì chúng tôi trông thấy xác nhận việc làm của chúng tôi là chính nghĩa. 

Ông Olivier Parriaux trò chuyện cùng đại diện Người Đô Thị tại khách sạn Continental.


Nếu sức khỏe và điều kiện cho phép, các ông có quay trở lại Việt Nam lần nữa? 

Nhất định sẽ trở lại. Mong muốn tha thiết của chúng tôi là chính quyền và nhân dân Việt Nam hãy ủng hộ cuộc đấu tranh của các nạn nhân chất độc da cam chống các công ty hóa chất Mỹ.

Các ông vừa đến thăm địa đạo Củ Chi, cảm giác của các ông ra sao?

Trước đây chúng tôi đã biết đến những khó khăn tột cùng của nhân dân Việt Nam, nhân dân một nước nghèo phải chiến đấu chống lại siêu cường số một thế giới. Nay đến Củ Chi, chúng tôi biết Việt Nam có một địa đạo, đó chính là vũ khí của những người nghèo nhưng rất thông minh.

Câu hỏi cuối: Trong chuyến hành trình dài đến một nơi xa lạ như Việt Nam, sao các ông chỉ mang theo chiếc vali nhỏ xíu, nhẹ tênh? 

Thứ đáng giá nhất chúng tôi mang theo là 10 quyển sách để tặng bạn bè Việt Nam. Chúng tôi không quan tâm lễ tiết, áo quần. Không thích phô trương, rình rang.

Xin cảm ơn các ông!

Bài: Lệ Thủy - Ảnh: Trung Dũng

 

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.