Một tọa đàm về ĐH KVLN do Trung tâm Nghiên cứu xã hội và giáo dục Trí Việt và Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục (IRED) phối hợp tổ chức.
Việt Nam đang cần mô hình ưu việt của ĐH KVLN
Không phải ngẫu nhiên mà người dân hoan nghênh sự ra đời chính thức của ĐH Fulbright. Ý tưởng thành lập ngôi trường này ấp ủ từ năm 2005 khi Thủ tướng Chính phủ lúc đó, ông Phan Văn Khải, sang thăm Mỹ và bàn thảo về một trường ĐH mang những nét hay nhất của nền giáo dục Mỹ kết hợp với những giá trị văn hóa Việt Nam.
Khi chính thức thành lập vào năm 2016, đây là trường ĐH tư thục KNLN đầu tiên của Việt Nam thực sự vận hành theo mô hình giáo dục của các trường ĐH Mỹ danh tiếng. Những điểm ưu việt mà ĐH Fulbright đem đến cho giáo dục Việt Nam, sẽ là: trường không có cổ đông, không thuộc sở hữu tư nhân và hoàn toàn phục vụ cộng đồng, “người ta sẽ đóng góp vì đó là cách để hiện đại hóa đất nước và thúc đẩy tiến bộ xã hội” (Thomas Vallely, Chủ tịch Hội đồng Quỹ tín thác Sáng kiến Giáo dục VN); hệ thống quản trị trường không bị chi phối bởi quyền lợi tài chính; trường nhận được sự ủng hộ vật chất và pháp lý từ hai chính phủ, giới doanh nhân, cựu chiến binh, học giả…; trường huy động đội ngũ giảng viên uy tín, chủ trương phát triển nghiên cứu kết nối với những vấn đề của đất nước, tạo ra một mô hình ĐH cách tân, tận dụng nguồn lực con người và hệ thống quản trị mới để tạo ra thay đổi trong giáo dục.
Như vậy, những cách tân mà mô hình ĐH KVLN như Fulbright đem đến thật sự giải quyết được nhiều vấn đề trong giáo dục Việt Nam hiện tại. Từ những năm 1995, chủ trương xã hội hóa giáo dục tạo đà cho số trường ĐH, CĐ gia tăng nhanh chóng, thu hút các nguồn đầu tư vào giáo dục. Qua hơn 20 năm, hệ thống các trường ngoài công lập đã có những đóng góp nhất định cho ngành giáo dục nói riêng và cộng đồng nói chung.
Tuy nhiên, không ít trường lại đang sa vào vòng luẩn quẩn của bài toán kinh doanh và giáo dục. Lợi nhuận từ giáo dục không chỉ dùng để tái đầu tư mà dành phần lớn cho chi trả cổ tức và các mục đích kinh doanh khác. Người thụ hưởng giáo dục hiện nay phải khá tinh nhạy để lựa chọn một ngôi trường, một chương trình học thật sự chất lượng, vì dù thoạt nhìn, sự đầu tư cơ sở vật chất, học bổng cho người học khá tốt, nhưng sinh viên đang phải trả chi phí cao cho quá trình học đại học tư trong khi chưa được đảm bảo về chất lượng chương trình.
Nhiều năm nay, các nhà giáo dục và cả xã hội đã lên tiếng tìm kiếm một mô hình ĐH KVLN của Việt Nam, để chấn hưng giáo dục nước nhà. Tuy nhiên, một mặt khác, xã hội cũng chưa dám tin tưởng vào mô hình này ở VN, trong bối cảnh nhiều trường ĐH đã tuyên bố theo định hướng KVLN nhưng chưa được công nhận về pháp lý và trong vận hành còn rất nhiều trùng lắp với mô hình công ty cổ phần.
Hành lang pháp lý là thách thức lớn nhất?
Luật Giáo dục ra đời năm 2005 có hiệu lực từ 1.1.2006, quy định 3 hình thức sở hữu của trường ĐH là công lập, dân lập và tư thục. Trước đó, ngày 18.4.2005 Chính phủ ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao. Một trong những biện pháp quan trọng thúc đẩy xã hội hóa giáo dục là: “Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở phi lợi nhuận”. Nghị quyết 05 đã xác định rõ: “Theo cơ chế phi lợi nhuận thì ngoài phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của các nhà đầu tư, phần để tham gia thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trợ giúp người nghèo, lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển”.
Ông Nguyễn Thành Phong - Chủ tịch UBND TP.HCM trao Quyết định thành lập trường đại học Fulbright Việt Nam cho ông Bob Kerrey, Chủ tịch Hội đồng Tín thác FUV ngày 25.5.2016. Ảnh: Trung Dũng
Một số nhà sáng lập trường ĐH tư thục kể rằng trong buổi đầu thành lập, họ định hướng trường hoạt động KVLN. Nhưng về pháp lý, khi đó, Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg về quy chế tổ chức và hoạt động của trường ĐH tư thục quy định ĐH tư thục có mô hình như một công ty cổ phần, thuộc sở hữu của các nhà đầu tư. Khái niệm ĐH tư thục KVLN đến tận năm 2012 mới được nhắc lại, khi Luật Giáo dục ĐH được Quốc hội thông qua, khẳng định sự phân định giữa ĐH tư thục vì lợi nhuận và ĐH tư thục KVLN.
Gần đây nhất, Điều lệ các trường ĐH ban hành kèm Quyết định 70/2014 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn hồ sơ và thủ tục để công nhận trường ĐH tư thục KVLN: trường ĐH tư thục muốn chuyển sang mô hình KVLN phải thực hiện theo đúng quy trình, thủ tục quy định tại Điều lệ, trong đó phải có sự đồng ý của đại diện tối thiểu 75% tổng số vốn góp của các thành viên góp vốn. Đây là rào cản lớn, bất khả thi với các trường tư thục Việt Nam hiện nay, khi lợi ích kinh tế của các nhà đầu tư chi phối cách điều hành hoạt động giáo dục. Bất ổn nội bộ của một số trường tư cũng bắt đầu từ đây.
Quy định hiện nay cũng khiến các trường ĐH phải hiểu khái niệm ĐH KVLN một cách “bám luật” hơn, không thể chỉ căn cứ vào những mô hình nổi tiếng của thế giới. Trường ĐH KVLN của Việt Nam vẫn có cổ đông, có phân chia cổ tức (không được vượt quá lãi suất trái phiếu chính phủ), khác hẳn cách vận hành trường KVLN của Mỹ.
Trong khi đó, qua nhiều cuộc tọa đàm, các nhà giáo dục gần đây đã đạt đến sự đồng thuận cao trong hình dung về mô hình ĐH KVLN, qua 3 đặc điểm: trường không thuộc sở hữu cá nhân hoặc nhóm lợi ích, trường không phân chia lợi nhuận cho cá nhân, lợi nhuận giáo dục được tái đầu tư cho hoạt động vận hành trường và đầu tư nghiên cứu, giáo dục. Như vậy, sự “khập khiễng” giữa thực trạng vận hành ĐH KVLN ở Việt Nam, quy định của pháp luật và mong đợi của những người làm giáo dục khiến bức tranh chung về ĐH KVLN chưa thể sáng sủa. Đa phần ý kiến chuyên gia cho rằng phải có quy chế trước (tháo rào cản công nhận ĐH tư KVLN, khuyến khích nguồn đầu tư, miễn thuế, cấp đất,…) thì mô hình này mới phát triển.
Nhưng dù quy chế đã thông suốt, có lẽ trong 5-10 năm tới, mô hình ĐH KVLN của Việt Nam vẫn khó phát triển mạnh mẽ. Ngay như Trường ĐH Fulbright cũng đã lường trước những khó khăn khi áp dụng mô hình KVLN tại Việt Nam: huy động kinh phí cho giáo dục không dễ dàng, khó thuyết phục nguồn đầu tư tin vào cơ chế quản trị độc lập và tính tự do học thuật mà trường theo đuổi, học phí phải duy trì ở mức vừa phải trong khi chất lượng chương trình muốn vươn tới chuẩn cao…
Ở Việt Nam, những ĐH tư thục thật sự KVLN đầu tiên theo cách hiểu phổ quát của quốc tế lại là những trường không hoàn toàn của Việt Nam: ĐH Fulbright hợp tác với Chính phủ Mỹ, và ĐH RMIT được Chính phủ Úc tài trợ. RMIT là một minh chứng cho thấy mô hình ĐH KVLN có thể phát triển trong điều kiện hành lang pháp lý chưa hoàn thiện.
Hơn 10 năm qua, RMIT không chia lợi tức cho cá nhân hay tập thể nào, Hội đồng điều hành chủ trương tạo lợi nhuận cao để cấp học bổng lớn và đầu tư nghiêm túc vào chương trình, cơ sở đào tạo. Với sự cách biệt lớn về vận hành so với các trường ĐH Việt Nam, và cả so với khung pháp lý, đến nay, theo Điều lệ trường ĐH, RMIT cũng khó lòng được công nhận là trường ĐH tư thục KVLN, dù trong hoạt động, trường phù hợp với những tiêu chí chính đáng về mô hình này.
Thêm mô hình ĐH tư thục KVLN để phát triển giáo dục nước nhà là mong muốn rất gần, và hy vọng sẽ đạt được khi Nhà nước cải thiện mạnh về quy chế và giáo dục chứng minh được chất lượng và cơ chế quản lý minh bạch để thu hút nguồn hiến tặng, và trên hết phải có những người tâm huyết làm giáo dục KVLN. Ở các nền giáo dục phát triển khác cũng vậy, những người sáng lập các ngôi trường KVLN đầu tiên đã không bị ràng buộc bởi cổ đông và không phải chấp nhận theo cách “cổ đông là chủ sở hữu trường”, để ngôi trường có thể tồn tại qua nhiều thế hệ điều hành, phụng sự nhiều thế hệ SV. Xã hội sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ đó.
Trên bình diện thế giới, giáo dục ĐH và quỹ thiện nguyện là hai địa chỉ luôn nhận được sự hỗ trợ trực tiếp và nhiều nhất từ các nhà hảo tâm. Theo báo cáo “Nhà tài trợ Triệu đô” của Coutts 2015, tổng số tiền thiện nguyện với qui mô tối thiểu 1 triệu USD cho mỗi khoản tài trợ trên thế giới năm 2014 là 24,5 tỉ USD, trong đó giáo dục ĐH chiếm 30,9% hay 7,58 tỉ USD.
Chỉ số Trao tặng Thế giới 2015 (World Giving Index 2015) khảo sát 145 quốc gia với ba câu hỏi chính: Bạn có sẵn lòng giúp đỡ người lạ, bạn có sẵn lòng đóng góp tiền, hay đóng góp thời gian công sức để làm từ thiện hay không. Thứ hạng tổng thể của Việt Nam là 79/145, thứ hạng thành phần theo ba câu hỏi là 57, 81, và 95.
Thứ hạng này có thể khiến nhiều người trong nước hoài nghi. Thực chất Việt Nam không thiếu những cá nhân hay tổ chức từ tâm, luôn nhiệt tình tương trợ những hoàn cảnh khó khăn. Nhưng đó là sự hỗ trợ mang tính ngắn hạn, khó giải quyết được trục trặc xã hội về lâu dài.
Đầu tư thiện nguyện giúp xây dựng được nền móng đạo đức, tạo ra văn hóa sống, tạo những thế hệ biết ươm dưỡng cái tốt, cái đẹp lâu dài. Chúng ta cần xây dựng văn hóa thiện nguyện có tính lâu dài và căn cơ… như trường hợp Kí túc xá Cỏ May.
(Theo Facebook nhà báo Vũ Kim Hạnh)
Mai Tiến
» Đại học không vì lợi nhuận trên thế giới được thực hiện ra sao?
» Đại học không vì lợi nhuận tại Việt Nam: mô hình hay sao vẫn gặp khó?
» Giáo dục khai phóng sẽ dẫn dắt đại học Fulbright Việt Nam
» Đã làm đại học phi lợi nhuận thì đừng tư lợi
» Du học: chuẩn bị gì trước giờ G?
» Trong một trường đại học, đồng tiền phải phục vụ giáo dục!
Theo Giáo dục & Thời đại