Buồn dai dẳng: mầm họa trầm cảm

 16:53 | Thứ ba, 18/10/2016  0

Không ai miễn dịch với trầm cảm

Trầm cảm là một rối loạn khí sắc thường gặp trong các rối loạn tâm thần. Nó là một tình trạng buồn chán, giảm hứng thú quá mức và kéo dài, từ đó ảnh hưởng đến các hoạt động trong cuộc sống như công việc, học tập, gia đình và xã hội. Trong suốt đời người, tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm ở phụ nữ là 1/4, ở nam giới là 1/10. Tỷ lệ chung là 15%. Không ai được miễn dịch với trầm cảm, bệnh có thể xảy ra ở những người thuộc tất cả các tầng lớp xã hội, ở mọi quốc gia, mọi nền văn hóa. Có 80-90% người mắc trầm cảm có thể được điều trị một cách hiệu quả nếu phát hiện sớm. Tuổi trung bình khởi phát trầm cảm xấp xỉ 40, khoảng 50% bệnh nhân khởi phát trong độ tuổi 20-50. Trầm cảm cũng có thể khởi phát ở trẻ em và người lớn tuổi.

Nguyên nhân (yếu tố nguy cơ) gây trầm cảm thường gặp là do các sang chấn tâm lý (yếu tố stress) như: trong gia đình (xung đột giữa các thành viên; có người thân bệnh nặng hoặc kéo dài, có người chết, bị các khó khăn kinh tế); trong công việc thì gặp khó khăn, xung đột hoặc thất bại, mất việc làm; trong mối quan hệ xã hội thì xung đột, chia tay bạn bè, người yêu... Ngoài ra, còn do bệnh cơ thể kéo dài như các bệnh mạn tính (đái tháo đường, tai biến mạch máu não, cao huyết áp...) làm bệnh nhân giảm khả năng hoạt động và có cái nhìn bi quan về sức khỏe và tương lai.

Các thay đổi về sinh lý cũng có thể là nguyên nhân: trong một số giai đoạn phát triển của con người, có những giai đoạn do thay đổi các nội tiết trong cơ thể làm người ta dễ mắc rối loạn trầm cảm như phụ nữ ở giai đoạn sau sinh hoặc thời kỳ mãn kinh. Bên cạnh đó, có thể do thay đổi trong các chất dẫn truyền thần kinh trung gian (đây là những trường hợp gọi là trầm cảm nội sinh); do tính cách: người dễ trầm cảm thường là những người có tính cách bi quan hóa các vấn đề (luôn tự ti, chỉ nhìn thấy mặt xấu, mặt tiêu cực, thất bại của bản thân, gia đình và xã hội) hay những người thu mình ít tiếp xúc với xung quanh...

Làm sao để biết bị trầm cảm?

Trước tiên, quan sát cảm xúc. Người bệnh trầm cảm sẽ có khí sắc giảm, nét mặt buồn bã, nhiều khi không phản ứng với các kích thích bên ngoài. Họ thường cảm thấy buồn rầu, chán nản, mất hứng thú trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt các hứng thú trước đây đều giảm hoặc mất. Họ hay khóc lóc và luôn cảm thấy cô đơn mặc dù có nhiều người xung quanh.

Kế đến là dấu hiệu tư duy. Người bệnh mất tự tin vào bản thân (thường đánh giá thấp bản thân, cho rằng mình không làm được gì tốt đẹp hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được giao). Họ cảm thấy có tội, trường hợp nặng có các hoang tưởng tự buộc tội. Người bệnh có những suy nghĩ bi quan, tiêu cực về bản thân, về những người xung quanh và thế giới. Đặc biệt bệnh nhân luôn bi quan về tương lai, không thấy đường đi cho bản thân. Họ có cảm giác vô vọng, nếu nặng có thể có ý nghĩ tự sát.

Sau đó, về hành vi. Người bệnh có biểu hiện chậm chạp, cảm giác khó khăn ngay khi làm các công việc đơn giản. Ăn uống kém, giảm sự ngon miệng, không thấy cảm giác đói hoặc không có nhu cầu ăn uống. Họ bị rối loạn giấc ngủ (đa số mất ngủ, thường thức giấc nhiều lần hoặc dậy sớm); không làm được các công việc bình thường như trước; giảm khả năng tập trung, ngay cả việc đơn giản bệnh nhân cũng không có khả năng chú ý, tập trung được. Trường hợp nặng, họ có hành vi toan tự sát.

Cuối cùng về dấu hiệu cơ thể. Người bệnh trầm cảm hay bị đau đầu, đau nhức trong người; dễ mệt mỏi (dù chỉ làm công việc đơn giản nhưng bệnh nhân vẫn có cảm giác mệt mỏi toàn thân, đặc biệt vào sáng sớm); hay bồn chồn, bất an...

Chẩn đoán trầm cảm

Dựa vào tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức Y tế Thế giới (ICD-10), theo đó về tiêu chuẩn lâm sàng, người bệnh trầm cảm sẽ có ít nhất hai trong ba triệu chứng cơ bản sau: khí sắc giảm (hầu như cả ngày, mọi ngày; với trẻ em và vị thành niên thì thường bồn chồn); giảm hứng thú đối với các hoạt động trước đây ưa thích; dễ mệt mỏi.

Bên cạnh đó, về triệu chứng thường gặp, người bệnh có ít nhất hai trong các triệu chứng: giảm khả năng tập trung; giảm tự tin; thấy có tội và không xứng đáng; ảm đạm và bi quan về tương lai; có suy nghĩ hoặc hành vi tự hại hoặc tự tử; rối loạn giấc ngủ; giảm cảm giác ngon miệng.

Minh họa Partage-le

Ngoài ra, việc chẩn đoán còn dựa vào tiêu chuẩn thời gian (các triệu chứng kéo dài ít nhất hai tuần) và tiêu chuẩn ảnh hưởng cuộc sống (ảnh hưởng đến các hoạt động học tập, công việc, gia đình và xã hội).

Điều trị trầm cảm cách nào?

Tùy mức độ trầm cảm mà người bệnh sẽ được thầy thuốc lựa chọn liệu pháp điều trị. Có thể trị liệu tâm lý hoặc dùng thuốc hoặc phối hợp.

Về trị liệu tâm lý, bao gồm: giáo dục tâm lý đối với những trường hợp trầm cảm nhẹ, thầy thuốc có thể tư vấn cho người bệnh hiểu trầm cảm là gì, các triệu chứng, nguyên nhân; từ đó định hướng cho họ các hoạt động vui chơi, giải trí, làm việc... lấy lại cân bằng trong cuộc sống, đẩy lùi trầm cảm. Thư giãn - tập thở (đối với những trường hợp trầm cảm nhẹ và vừa; hướng dẫn cho họ tập thư giãn, có thể kết hợp với thuốc chống trầm cảm). Liệu pháp kích hoạt hành vi (Behavioral Activation - BA) áp dụng cho những trường hợp trầm cảm nhẹ và vừa; có thể kết hợp với thuốc chống trầm cảm hoặc không. Liệu pháp kích hoạt hành vi trong trầm cảm là để giúp người bệnh hiểu bản chất các triệu chứng; học cách suy nghĩ thay thế trong các tình huống tương tự; tạo động cơ cho các hoạt động có lợi sức khỏe; làm những công việc yêu thích tạo hứng thú, cải thiện tâm trạng; phối hợp một số hoạt động trong các bài tập rèn luyện ở nhà hàng ngày; trình bày lại cách đáp ứng hành vi mới; dự báo yếu tố nguy cơ, giải pháp ứng phó để duy trì hoạt động, ổn định và cải thiện tâm trạng. Liệu pháp nhận thức - hành vi (Cognitive Behavioral Therapy - CBT) giúp người bệnh thay đổi những suy nghĩ, giải thích, giả định và chiến lược đáp ứng của họ, từ đó thay đổi hành vi, có những hành vi tích cực để vượt qua trầm cảm.

Về điều trị bằng thuốc, thầy thuốc có thể lựa chọn một trong các thuốc sau: Fluoxetin, Sertraline, Mirtazapine, Amitriptyline... Trong trường hợp bệnh nhân mất ngủ hoặc bồn chồn nhiều thì dùng Diazepam. Lưu ý, việc dùng thuốc phải có chỉ định và lựa chọn của thầy thuốc, người bệnh không tự tiện dùng. Điều trị trầm cảm thường phải kéo dài, ít nhất là sáu tháng, có nhiều trường hợp đến một - hai năm để đề phòng tái phát.

TS-BS. Nguyễn Hữu Chiến - Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần trung ương 1

 

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.