Cũng dễ hiểu vì khá lâu rồi - nếu không nói đây là lần đầu tiên - người yêu thích mỹ thuật mới có dịp thưởng ngoạn những bức tranh của Sài Gòn năm xưa, với nhiều họa sĩ mà tác phẩm đã in dấu đậm nét trong ký ức hội họa miền Nam trước 1975.
Trong số 30 tác giả hiện diện trong 50 tác phẩm được trưng bày dịp này, có những tên tuổi quen thuộc như Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Tạ Tỵ, Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Trí Minh, Trần Đắc, Bé Ký, Hồ Thành Đức, Hồ Hoàng Đài, Duy Liêm, Hà Cẩm Tâm… Cũng có những họa sĩ chưa được công chúng hôm nay biết đến, và nhiều tranh trong triển lãm chưa phải là tác phẩm tiêu biểu, là đỉnh cao của các tác giả.
Còn thiếu rất nhiều những tên tuổi làm nên một nền mỹ thuật đích thực của Sài Gòn, nhất là các tên tuổi tập hợp trong Hội Họa sĩ trẻ như Nguyễn Trung, Đinh Cường, Nguyễn Phước, Trịnh Cung, Nguyên Khai, Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em… Song điều đó không ảnh hưởng nhiều đến cảm xúc thẩm mỹ mà phòng tranh “Sài Gòn xưa” mang lại. Trong nhịp sống nhanh và vội vã hôm nay, các triển lãm diễn ra cấp tập mỗi tuần nhưng không có mấy những phòng tranh để lại những dư vị ngọt ngào như vậy.
Đêm vui - tranh sơn dầu của Tạ Tỵ.
Riêng tôi, đến xem bộ sưu tập của ông Vũ Đình Hải là dịp hoài nhớ những kỷ niệm đã có với nhiều tác giả. Với họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993), tôi có may mắn được gặp bác nhiều lần khi ông đang thực hiện bức tranh sơn mài Vườn xuân Trung - Nam - Bắc trong xưởng vẽ trên đường Nguyễn Văn Trỗi. Ông cụ hiền lành, vui vẻ trò chuyện về tác phẩm có lẽ là lớn nhất, đẹp nhất của đời ông (1). Như nhiều tranh sơn mài trừu tượng khác của bác Trí mà tôi đã xem, bức trừu tượng ở triển lãm “Sài Gòn xưa” là cách thể nghiệm của bậc danh họa về một phong cách tạo hình hiện đại với chất liệu sơn mài truyền thống.
Ông Vũ Đình Hải (trái)với tranh sơn mài trừu tượng của Nguyễn Gia Trí. Ảnh: CTV
Ngắm mấy bức tranh của họa sĩ Văn Đen (1919 - 1988), tôi nhớ lần gặp ông tại lớp hội họa tài tử (2) của Hội Văn nghệ sĩ quân đội trên đường Nguyễn Du - Sài Gòn, nơi tôi võ vẽ học hội họa thời sinh viên. Hệt như những gì họa sĩ Đinh Cường viết về ông trong sách Đi vào cõi tạo hình (Văn Mới xuất bản, 2016) - “một họa sĩ người miền Nam xuề xòa, luôn mặc chiếc áo trắng cụt tay bỏ ngoài quần, mang đôi dép lẹp xẹp, miệng luôn ngậm điếu thuốc trễ xuống, có lúc anh ngậm ống vố, khuôn mặt hiền với nhiều tư lự…”.
Nhà sàn - tranh sơn dầu của Văn Đen.
Các tranh sơn dầu của Văn Đen trong “Sài Gòn xưa” (Đánh cờ - 1960; Hoa tú cầu xanh - 1960; Bình Chánh - 1970, Nhà sàn - 1970) dù chưa cho thấy hết diện mạo nghệ thuật của một bậc thầy so với cuộc triển lãm “Bộ sưu tập tranh sơn dầu của gia đình họa sĩ Văn Đen” vào đầu năm 1995 tại Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM, song cũng thể hiện được triết lý sáng tác của ông: “Họa sĩ phải là một nhà sáng tạo, dùng các cảnh vật như một ngữ vựng để làm ra một đề án khác. Hay nói một cách khác, cảnh vật chỉ là một cái cớ cho họa sĩ dựa lấy để bộc lộ tâm hồn mình… Linh hồn bức họa tiết lộ qua trung gian trí thông minh và trí tưởng tượng, là hai nguyên động lực chính cho sự sáng tạo” (3).
Nếu được hỏi thích nhất bức nào tại triển lãm, tôi không do dự trả lời: đó là các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Văn Phương (1930 - 2006). Tháng 4.2012, trước khi ngưng hoạt động, gallery Tự Do đã tổ chức một triển lãm hồi cố cho “họa sĩ của sắc màu mùa xuân và lễ hội”. 60 tác phẩm tại triển lãm “Mùa xuân vĩnh cửu” đã tôn vinh một tài năng đã dành trọn cuộc đời cho nghệ thuật, sống với nó từ những năm trai trẻ cho tới ngày nhắm mắt, để lại cho đời một gia tài nghệ thuật lớn mà tới nay chưa ai biết đích xác số lượng. Ba bức Liền chị liền em, Cung đàn nở hoa, Chợ hoa Nguyễn Huệ của ông có cùng nhịp điệu hình và màu như các tác phẩm tôi đã xem trong “Mùa xuân vĩnh cửu”.
Cần nói thêm, Nguyễn Văn Phương cùng với Văn Đen và Thái Tuấn là các giám khảo trong một số triển lãm hội họa có giải thưởng tại Sài Gòn đầu thập niên 1960.
Chợ hoa Nguyễn Huệ - tranh sơn dầu của Nguyễn Văn Phương.
Một tác phẩm gây ngạc nhiên cho tôi là Đại nội Huế của họa sĩ Hồ Hoàng Đài - thành viên nhóm cà phê sáng tại Hội Mỹ thuật trong nhiều năm. Vậy mà Nguyễn Lâm, Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em đã lần lượt qua đời còn người cao niên nhất (Hồ Hoàng Đài sinh năm 1937) vẫn còn chạy xe gắn máy đến Hội uống cà phê! Lâu nay, ngồi gần ông, được biết ông chuyên làm tranh dán giấy (collage) nhưng nay mới thấy Đại nội Huế - tác phẩm không chỉ giá trị về nghệ thuật mà còn cho thấy kỳ công thực hiện của tác giả.
Có những họa sĩ trong sưu tập của ông Hải còn xa lạ với nhiều người xem tranh, do họ hoạt động nghệ thuật tại các địa phương khác hoặc không thường xuyên tham gia các triển lãm ở Sài Gòn. Trong số đó, Phạm Đại Bình - tác giả tranh sơn dầu Bến nghỉ (1950) từng dự triển lãm mỹ thuật tổ chức tại Tòa đô chánh (trụ sở UBND TP.HCM hiện nay) tháng 10.1960; hay Nguyễn Cường - tác giả tranh màu nước Tết (1960) đã tham gia triển lãm giới thiệu mỹ thuật Việt Nam tại Washington cũng vào tháng 10.1960.
Chân dung thiếu nữ - tranh sơn dầu của Lê Chánh.
Vài năm trước ngày diễn ra triển lãm “Tác phẩm vang bóng một thời Sài Gòn xưa” tôi đã có dịp đến xem bộ sưu tập hơn 300 tác phẩm của ông Hải, ngày đó được lưu giữ trong một ngôi nhà rộng lớn ở quận 9. Do chưa được sắp xếp, chăm sóc cẩn thận vì chủ nhân sống ở Mỹ nên khá nhiều tranh có dấu hiệu hư hại. Nhiều bức tại triển lãm hôm nay cho thấy bề mặt tranh đã được phục chế, làm mới, một số bức vẫn thấy rõ vết rạn sơn dầu…
Vũ Đình Hải khiêm tốn tự nhận ông không phải là nhà sưu tập chuyên nghiệp, chỉ vì quá yêu thích và muốn lưu giữ các tác phẩm hội họa của Sài Gòn một thời hoa lệ mà ông không ngừng tìm kiếm, thu thập tranh, làm giàu cho bộ sưu tập của mình dù có những lúc gặp khó khăn về tài chính hay vào lúc cuộc sống ở Sài Gòn đang rất cam go!
Giá như các nhà sưu tập gọi là chuyên nghiệp cũng có được nghĩa cử như ông, tổ chức trưng bày bộ sưu tập của mình để công chúng có dịp đắm mình vào thế giới của cái đẹp, bởi như Dostoievski nói: “Chính cái đẹp sẽ cứu vớt đời sống”.
Nguyễn Trọng Chức
________________
(1) Khi “Vườn xuân Trung - Nam - Bắc” được TP.HCM mua để trưng bày thường trực tại Bào tàng Mỹ thuật, đã có những dư luận trái chiều trên báo chí. Do sai sót trong công tác bảo quản tại bảo tàng, tác phẩm được coi là quốc bảo này đã bị bong tróc, hư hại một phần
(2) Cách gọi khác của “nghiệp dư”, “không chuyên”
(3) Trích vựng tập triển lãm tranh Văn Đen năm 1995.