Chồng là “người đàn ông đã kết hôn, trong quan hệ với người phụ nữ đã kết hôn với mình”. Cặp vợ chồng chỉ có trong xã hội loài người. Vì vậy, chuyện “lúa chiêm lấy chồng” chỉ là một lối nói mang tính thậm xưng thường thấy trong thành ngữ, tục ngữ. Nhưng kết hợp này tưởng vô lý nhưng ngẫm ra lại có lý.
Đọc toàn bộ hai câu ca dao: “Gió đông là chồng lúa chiêm/ Gió may, gió bấc là duyên lúa mùa” ta hiểu, dân gian muốn chuyển tải một kinh nghiệm. Theo cách giải thích của Việt Chương (Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam, NXB Đồng Nai, 2003) thì “Gió đông là gió từ Biển Đông thổi vào mát mẻ nên thích hơp cho vụ lúa tháng năm. Qua tháng năm trở đi, nếu thấy có gió bấc se lạnh từ phương Bắc đổ về thì lúa mùa năm đó trúng lớn” (quyển thượng. tr. 619). Còn theo Nguyễn Đức Dương (Từ điển Tục ngữ Việt, NXB Tổng hợp TP.HCM, 2010) thì “Gió đông là thứ gió ưa thích nhất đối với lúa chiêm, gió bấc là thứ gió ưa thích nhất đối với lúa mùa”. (tr. 412)
Nông dân xã Vĩnh Đồng (Kim Bôi, Hoà Bình) khẩn trương thu hoạch lúa chiêm. Ảnh: Thu Hằng
Với nông dân miền Bắc, lúa chiêm thường cấy vào tháng chạp âm lịch. Lúc này, trời còn lạnh, cây lúa bén rễ phát triển chậm. Khi bắt đầu sang tiết xuân, có gió nồm (gió đông) thổi về từ biển mang hơi ấm, mưa rào xuất hiện: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Đây chính là tác nhân thời tiết ảnh hưởng mạnh mẽ cho cây lúa phát triển nhanh, qua thì con gái, có đòng, trổ bông, ngậm sữa và vào hạt. Coi gió đông như là “chồng” là một cách nói ví von tạo ấn tượng (có chồng thì vợ mói sinh con). Dù là kết hợp lạ nhưng người nghe thấy “hạt nhân chân lý” qua hình ảnh liên tưởng ngộ nghĩnh và thú vị này.
Trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, không thiếu những cấu trúc được tạo dựng từ việc mượn một vai nào đó trong quan hệ con người để “gán” cho đối tượng cần nói. Chẳng hạn câu tục ngữ “Cơm tẻ (là) mẹ ruột”. Cơm tẻ (cơm nấu bằng gạo tẻ) là thức ăn thông dụng, cơ bản, rất cần thiết trong mỗi bữa ăn. Vai trò của nó đến nỗi xứng đáng được coi là “mẹ của ruột”. Không có “mẹ” này thì ruột không có thức ăn tạo dinh dưỡng nuôi cơ thể.
Hay là câu “Thật thà là cha quỷ quái”. Câu trên là “mẹ”, câu này là “cha”. “Quỷ quái” là một đối tượng “hết sức tai ác và ranh mãnh”, ai cũng sợ. “Thật thà” chỉ một phẩm chất của ai đó ngay thẳng, chân thực, không dối trá, rất đáng quý. Hai khái niệm này đối nghịch nhau làm nên một hàm ý. Theo Nguyễn Đức Dương (sách đã dẫn, tr. 808) nghĩa câu này là “Thật thà quá (giữa thời buổi đầy rẫy giả dối) là cha đẻ của bao trò quỷ quái”. Nhưng dân gian lại tồn tại một cách hiểu hoàn toàn khác: “Sự thật thà, trung thực được coi là cao hơn, quý hơn, đáng trân trọng hơn bất kỳ sự khéo léo đến mức quỷ quái của ai đó”. Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Suy cho cùng, thật thà là giá trị cốt lõi của cuộc sống.
Lại có câu “Tre già (là) bà lim”. “Bà” ở đây là người có tuổi, có cương vị, cũng là người có phẩm chất, kinh nghiệm hơn mọi người trong nhà”. “Bà” vào vai “tre già” để khẳng định một giá trị “(Cây) tre được để thật già (mới dùng) thì thân của nó còn bền hơn cả lim (một loại gỗ rất bền tốt - chú thích của người viết) gấp trăm lần.” (Nguyễn Đức Dương, sách đã dẫn, tr. 882).
Lại có câu “Người gầy thầy cơm”. “Thầy” ở đây được hiểu là “người có khả năng, trình độ cao hơn người khác”. Nét nghĩa này được tận dụng để tạo nên tục ngữ “Những người gầy gò thường ăn khoẻ”.
Trong một loạt các câu tục ngữ vừa xét, ta thấy “chồng”, “mẹ”, “cha”, “bà” đều là những người khác nhau trong ngôi thứ gia đình lại được đưa vào như một thành tố tạo nên tục ngữ. Nó phản ánh một hiện tượng “mượn” một đối tượng có thực trong cuộc đời để xây dựng cấu trúc và làm nên ngữ nghĩa tục ngữ, làm cho câu nói giàu hình ảnh, thêm sinh động, dễ tiếp thu.
Căn cứ để “mượn” đó, trước hết là phải có sự hiệp vần: (gió) đông – chồng (lúa chiêm), (cơm) tẻ - mẹ (ruột), (tre) già – bà (lim, gầy - thầy…) và cả câu có sự hài âm, hài thanh, dễ đọc, dễ nhớ. Đó cũng là một nét độc đáo của tiếng Việt ta đấy.
Chồng, cha, con, mẹ, thầy, bà
Đưa vào tục ngữ nhìn ra cuộc đời.
PGS-TS. Phạm Văn Tình (Hội Ngôn ngữ học Việt Nam)