Người giải mã chiến tranh bằng ngôn ngữ hình ảnh

 23:00 | Thứ bảy, 14/06/2014  0

Sống ở Mỹ nhiều năm và đã có thành công nhất định, có lẽ anh đủ tiền để sống ở một khu vực tốt hơn khu dân cư anh đang ở?

Nhưng, nhiều người đang ở như tôi, thậm chí không được bằng, vậy mà họ vẫn sống, vẫn làm việc tốt. Chẳng có lý do gì bức bách để mình chọn một chỗ ở tốt hơn. Mặt khác, mặt này mới là chính đây: tôi cần dành dụm tiền để cùng bạn bè duy trì hoạt động của Sàn Art.

Vậy, hoá ra Sàn Art là lý do chính để anh giã từ nước Mỹ (nơi cả gia đình anh đang định cư hơn 30 năm qua) trở về sống ở Việt Nam?

Không. Sàn Art không phải là lý do đầu tiên và duy nhất để tôi về “thăm” Việt Nam lần đầu tiên năm 1993 và từ năm 1997 đến nay ở lại đây dài hạn. Có cái gì đó vừa chông chênh, vừa thôi thúc từ bên trong trái tim của một người học nghệ thuật và làm nghệ thuật ở nước ngoài như tôi. Rời Việt Nam khi còn là một đứa trẻ 10 tuổi, nhiều thứ trong tôi đều rất mơ hồ: ngôi trường tuổi thơ, quê hương Hà Tiên và cả cuộc chiến tranh mà người lớn thường xuyên nhắc tới… Cảm giác đầu tiên khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất thật kỳ lạ: mọi mơ hồ như tan biến. Đây là nước mình. Đất nước mà mình phải tìm lại mọi thứ để hiểu và yêu hơn.

Mười sáu năm sống ở Việt Nam, có nhà, có công việc, có bạn bè, có giải thưởng quốc tế đã đủ để anh hiểu đất nước mình hơn chưa?

Tất nhiên là hiểu hơn trước đây nhiều. Còn về tình yêu đất nước thì đâu cần phải hiểu căn kẽ rồi mới yêu. Yêu là yêu, vậy thôi. Dẫn chứng là khi tổ chức các triển lãm và hội thảo nghệ thuật ở Việt Nam, tôi và các đồng nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục xét duyệt, thậm chí có trường hợp không được cho phép. Có những người quản lý đã đặt ra sự nghi ngờ về hoạt động nghệ thuật của Sàn Art trong mối quan hệ với nước ngoài. Không thể không buồn, không nản và thậm chí còn không thể hiểu được. Nhưng đâu phải vì thế mà bỏ cuộc và... không yêu nước!

Cái gì cũng có nguyên nhân, theo nhận biết của anh thì các khó khăn đó là do đâu?

Do khoảng cách nhận thức của người có thẩm quyền quản lý và nghệ sĩ. Ví dụ, triển lãm tác phẩm về hậu quả chất độc da cam gây ra cho con người thì đương nhiên phải là những hình ảnh dị thường gây xốn xang, đau lòng. Những tượng em bé có hai đầu, những chiếc áo len trẻ con không có tay. Trước năm 2000 một triển lãm về chủ đề đó của tôi đã không được tổ chức vì lý do “gây phản cảm”, “có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu và cuộc đấu tranh đòi bồi thường chiến tranh từ phía Mỹ”. Tôi thì nhận thức đơn giản thế này, nghệ thuật phản ánh thực tiễn đời sống, có thể làm cho người ta vui và cũng cần làm cho người ta buồn, thậm chí phẫn nộ. Hậu quả chiến tranh khiến người ta ghê sợ, đau đớn nhưng cũng khiến người ta căm ghét, chống đối để chiến tranh không xảy ra nữa, để bảo vệ hoà bình. Nghệ thuật cần gửi đi các thông điệp như thế.

Có phải vì nhận thức đó mà đề tài chiến tranh cứ trở đi trở lại trong các tác phẩm của anh?

Một phần chính là thế. Một phần khác là vì khi còn ở bên Mỹ, khi xem các bộ phim về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam do người Mỹ thực hiện tôi thấy trong đó thường chỉ nói về các mất mát, đau khổ của người Mỹ mà thiếu hẳn những mất mát đau thương vô cùng to lớn của người Việt Nam. Cách thể hiện như vậy theo tôi là thiên lệch, không khách quan, có thể làm cho công chúng trên thế giới hiểu chưa đúng về cuộc chiến tranh tại Việt Nam và người Việt Nam trong cuộc chiến tranh đó.

Người Việt Nam trong cuộc chiến tranh đó luôn là một con người cầm súng chống lại đối phương xâm lược…?

Khi còn nhỏ, nhận thức của tôi về chiến tranh, thông qua các câu chuyện kể của người lớn, rất mơ hồ, chủ yếu là bắn giết, chết chóc. Khi lớn lên, đi học, biết về đất nước mình chủ yếu qua những đường nét người ta vẽ là một đất nước chiến tranh đầy sự kinh hoàng. Câu hỏi ám ảnh tôi và buộc tôi trong suốt nhiều năm đi kiếm tìm là không phải tự nhiên mà người ta phải cầm súng. Trong lòng cuộc chiến tranh dai dẳng ấy còn có những gì nữa mà mình chưa biết, mình phải biết và chuyển nó vào tác phẩm nghệ thuật.

Sau nhiều năm tìm kiếm, nhất là những năm về sống ở Việt Nam, anh biết thêm điều gì về cuộc chiến tranh ấy?

Niềm tin, thể hiện qua các hoạt động sáng tác nghệ thuật của người Việt Nam trong chiến tranh. Theo tôi đó là nét độc đáo hiếm hoi trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Tôi đã gặp và nhận được sự hợp tác của các hoạ sĩ Huỳnh Phương Đông, Nguyễn Toàn Thi, Kim Tiến , Quách Phong, Nguyễn Thanh Châu, Quang Thọ, Phan Oánh, Nguyễn Thụ… Bộ sưu tập mà tôi có được là các bức ký hoạ và màu nước do chính các hoạ sĩ vẽ trong chiến tranh. Qua các bức ký hoạ ấy thấy hiện lên chân dung nhân vật chiến sĩ lạc quan, yêu đời: chải tóc, may vá, làm thơ, ghi nhật ký, hát múa… Lại thấy cả chân dung các hoạ sĩ – chiến sĩ cầm bút vẽ giữa hai trận đánh. Tôi đã ghi chép và kể lại câu chuyện của các hoạ sĩ Việt Nam thời chiến bằng ngôn ngữ hình ảnh. Bộ phim video ấy có tên Ánh sáng – Niềm tin đã được tuyển chọn triển lãm ở Documenta 2013 (Kassels, Đức).

Phim chiếu trên màn ảnh lớn, xung quanh là các bức tranh ký hoạ mang từ Việt Nam tới được sắp đặt một cách tự nhiên và ấn tượng, hình ảnh tĩnh và động của các hoạ sĩ từ thời trẻ đến khi đã già đi theo thời gian cùng với các câu hỏi và câu trả lời sinh động của họ trong phim đã tạo ra một hiệu ứng cao độ cho khán giả. Tôi thấy vui vì tác phẩm lọt qua khâu giám tuyển (curator) khó tính để đến được đây không phải dễ. Documenta được xem là triển lãm nghệ thuật đương đại quan trọng nhất thế giới hiện nay, 5 năm tổ chức một lần tại Kassels, Đức. Mỗi lần triển lãm 100 ngày. Sau Documenta 2013, tác phẩm Ánh sáng - Niềm tin đã được mời triển lãm ở Rose Museum thuộc Carnegie Hall rất nổi tiếng ở New York.

Trong lúc tác phẩm của anh tham dự và được đánh giá cao tại các triển lãm quốc tế quan trọng, thì tại Sàn Art ở Sài Gòn cũng đang diễn ra triển lãm của các hoạ sĩ trẻ đến từ các địa phương. Có vẻ như Sàn Art là một cầu nối?

Chính xác là cầu nối giữa mỹ thuật đương đại Việt Nam và mỹ thuật đương đại thế giới. Trong mỹ thuật đương đại nói riêng và nghệ thuật đương đại nói chung thì ý tưởng là cực kỳ quan trọng. Bởi vì trong ý tưởng đã có chủ đề, chất liệu và cách thức thực hiện.

Trong chức năng cầu nối của mình, Sàn Art đã tổ chức không gian đọc sách với các đầu sách về nghệ thuật sáng tạo có giá trị của thế giới và luôn được cập nhật, ai có quan tâm nghề nghiệp đều có thể đến đọc miễn phí. Sàn Art cũng tổ chức các khoá lưu trú cho hoạ sĩ trẻ ở các địa phương trong nước (và trong khu vực Đông Nam Á) đến nghiên cứu, trao đổi ý tưởng và phương thức thể hiện tác phẩm, sáng tác và triển lãm thành quả. Mỗi năm có ít nhất một khoá lưu trú như vậy cho hai hoạ sĩ, kéo dài trong 6 tháng. Các hoạ sĩ trẻ được Sàn Art phối hợp với các nhóm mỹ thuật địa phương tuyển chọn, được đài thọ hoàn toàn các chi phí đi lại, ăn ở, phương tiện sáng tác và triển lãm. Nếu bán được tác phẩm thì chỉ phải đóng góp rất ít cho Sàn Art để góp một phần nhỏ trang trải chi phí thuê nhà, điện nước.

Sàn Art là một tổ chức tư phi lợi nhuận, vậy mà lại tự đặt cho mình nhiệm vụ tạo ra không gian sáng tác và khuyến khích sự sáng tạo cá nhân – một nhiệm vụ lẽ ra phải thuộc các cơ sở đào tạo nghệ thuật của nhà nước?

Bởi vì theo quan sát của tôi thì công tác đào tạo nghệ thuật nói chung và mỹ thuật đương đại nói riêng ở Việt Nam có rất ít sự khuyến khích sáng tạo. Giáo trình cứ theo một khuôn đã cũ, chậm thay đổi và cập nhật. Một cái thiếu khác cũng rất quan trọng trong hoạt động sáng tạo là thiếu không gian để sáng tác và thiếu cả sự kết nối các nhóm nghệ thuật trong nước với nhau và với bạn bè nước ngoài. Làm một mình thì lay hoay lắm, không thể tạo được sự thay đổi. Sàn Art cố gắng bổ khuyết phần nào vào cái thiếu đó kể từ năm ra đời (2007) đến nay.

Nhưng để làm được những việc đó thì cần phải có tiền?

Tiền có từ nguồn tài trợ của tổ chức và cá nhân không nhiều, chỉ đủ để duy trì đường hướng thể nghiệm nghệ thuật và khai thác tác phẩm mới.

Như vậy xem ra anh và các cộng sự ở Sàn Art chẳng có lợi lộc riêng tư gì?

Không có lợi lộc riêng nhưng lại có hai cái được vui lắm: thứ nhất, bây giờ, các hoạ sĩ đương đại quốc tế đến Việt Nam đều ghé Sài Gòn và đến thăm Sàn Art thay vì đi thẳng Hà Nội như trước đây. Như thế là họ đã công nhận ở Việt Nam có một địa chỉ mỹ thuật đương đại hoạt động đều đặn và gần đúng như cách các nước phát triển vẫn làm. Thứ hai, đã có “mùa quả” từ các khoá lưu trú sáng tác. Hoạ sĩ Phan Thảo Nguyên của khoá lưu trú năm 2013 đã “lôi” từ trong quá khứ ra cây đay mà giữa những năm 1940 quân đội Nhật đã bắt người Việt Nam phá ruộng lúa để trồng, gây ra nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945. Loạt tranh của Nguyên đang triển lãm tại Sàn Art là một chuỗi tư thế xin lỗi của những con người trẻ – già, nam – nữ, người lính – thường dân. Không ghi chú là ai, đang làm gì. Chỉ cần biết cây đay trưng bày ở trước phòng triển lãm là tác nhân gây ra nạn đói trong quá khứ. Chỉ cần biết xin lỗi là một cử chỉ văn hoá không của riêng quốc gia nào, nhưng nhìn kỹ vào nét vẽ gương mặt và dáng người hao hao với đặc trưng dân tộc thì có thể đoán biết. Nghệ thuật đương đại là vậy. Cái đẹp, cái hấp dẫn gắn với cuộc sống đương đại, có quá khứ để hồi tưởng, có hiện tại để nếm trải và có tương lai để ước mơ.

Cái được chung của Sàn Art là vậy. Còn anh thì có cái được nào cho riêng mình?

Có hai cái trực thăng (cười). Một cái là tác phẩm Biển Đông Piskun (năm 2009), hoạt cảnh 3D tái hiện chiếc trực thăng của quân đội Hoa Kỳ rơi xuống biển Đông khi tháo chạy khỏi Sài Gòn năm 1975. Một cái là Dự án 93 kể lại thành tựu sáng chế trực thăng của hai nông dân Lê Văn Danh và Trần Quốc Hải từng làm dậy sóng báo chí Việt Nam sau hơn mười năm mở cửa, hội nhập. Video 15 phút, màu sắc và âm thanh sống động này được trình chiếu kèm theo mô hình chiếc trực thăng và hai nhân vật “người thực, việc thực” đã làm cho Project 93 gây ấn tượng lớn tại bảo tàng Nghệ thuật đương đại (MoMA) New York (2006). Một chiếc trực thăng kết thúc cuộc chiến tranh. Cái kia minh chứng cho tinh thần sáng tạo để vươn lên của người Việt.

Nguyễn Thế Thanh thực hiện

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.