Tác giả Tô Minh Nguyệt (áo dài tím) cùng với nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải (bên phải) và nhà báo Huỳnh Dũng Nhân giao lưu với độc giả tại Đường sách (quận 1, TP.HCM). Ảnh: Tạp chí Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
Người lớn tuổi đã qua chiến tranh sẽ được nhớ lại gần như toàn cảnh sự thật ngày ấy. Từ hậu phương dõi theo con em đi chiến trường, người ở lại đã cật lực sản xuất chiến đấu, sơ tán nuôi dạy con nhỏ, chịu biết bao gian khổ. Bây giờ đọc lại sẽ ngạc nhiên sao ngày ấy có thể chịu đựng được đến vậy.
Trong sách, tác giả viết những nhận xét tinh tế về cái thời xã hội trong lành “Không trộm cướp. Không ai ăn xin. Không ai nỡ ăn uống ngon một mình. Trẻ mồ côi, người già có hàng xóm xúm vào giúp”.
Những người trẻ tuổi đọc tập truyện ký ghi chép sống động này cũng sẽ ngạc nhiên trước sức mạnh của tuổi trẻ và tự hỏi nguồn sức lực nào khiến họ phi thường đến vậy mà lại luôn thấy mình bình thường. Nhiều cách cư xử tình cảm ngày nay không thấy nữa, có lẽ do điều kiện đã khác rồi chăng?!
Chúng ta sẽ được thấy cô giáo bị bom cưa cụt tay ngày đêm học viết tay trái để có thể theo nghề, và học sinh thiện lành hồn nhiên theo cách ngày nay không thấy, vì sợ bày tỏ tình cảm riêng tư. Giữa lớp em giơ tay tưởng xin phát biểu gì về bài học, hóa ra chỉ nói chân thật: “Em thương cô lắm ạ.”
Bút ký Đi học trong tầm súng - những người vừa sản xuất vừa chiến đấu vừa đi học lên đến tiến sỹ như Thiều Hoa. Chuyện chị Nguyễn thị Thân, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xuất thân công nhân nhà máy dệt 8.3, học Đại học Bách khoa và trở thành giám đốc nhà máy. Chị Phạm thị Ngọc Khuê thư ký công đoàn Nhà máy diêm Thống Nhất Cầu Đuống, chồng bộ đội ở chiến trường vẫn thu xếp gia đình đi học đại học quản lý kinh tế. Sau này thống nhất đất nước, trở thành Bí thư Đảng ủy nhà máy thuốc lá Sài Gòn…
Chúng ta sẽ nhớ lại giọng ca Bích Liên - ngày ấy chưa có Tivi, chỉ nghe ca sĩ hát trên loa đài và sau những "đọc truyện đêm khuya”, các gia đình nằm thao thức trong đêm thương nhớ con em ở chiến trường không tin tức (cho tới nay nhiều nhà vẫn chưa biết con mình hy sinh nằm nơi đâu). Và cùng được vực dậy khi nghe giọng ca Bích Liên với nhiều ca khúc quen thuộc Đường cày đảm đang, Bài ca hy vọng… Biết người ca sỹ không chỉ ở sân khấu mà có cả chuyện chị đi hát phục vụ bộ đội các chiến trường. Tác phẩm nghệ thuật, giọng ca đẫm chất dâng hiến một thời đặc biệt.
Bìa cuốn sách Thư viết từ Hà Nội. Ảnh: CAND
Những cô gái làng hoa ở Thanh Hóa khi thấy bạn nam vào bộ đội, 85 cô gửi đơn đăng ký vào đội trực chiến và đã bắn rơi 3 máy bay Mỹ bay vào bầu trời Hà Nội ném bom xuống sự sống yên lành. Chuyện những mối tình cô gái ở lại “ba đảm đang" khi chờ người yêu ra trận không biết ngày về….
Nhưng trong sách, mảng ấn tượng sâu đậm nhất là những bài viết, những lá thư dùng chất liệu từ chính cuộc sống thật của nhà báo Tô Minh Nguyệt.
Những nhà báo Hà Nội ngày đó ai cũng biết cô phóng viên xinh đẹp và giỏi giang xông pha của báo Phụ nữ Việt nam. Chị sống ở làng Láng, có các anh em trai đều đi chiến trường nên những lá thư mang sức rung động mạnh. Cảnh cha chị - ông giáo già đêm đêm trong tiếng còi báo động và đạn bom - vẫn âm thầm dò trên bản đồ dấu chân của các con trai ngoài mặt trận. Và Hùng, người em trai trẻ trung đã ngã xuống ở chiến trường. Trong căn hầm bom rung ở Huế, Hùng viết thư cho chị, báo tin vui mừng bất ngờ “gặp" chị qua những bài báo chị viết được đọc trên đài phát thanh.
Ngày xưa mịt mù, con em ra đi không tin tức đằng đẵng, được biết chuyện nhà, nghe bài của chị qua đài giữa mặt trận…, cảnh huống thiêng liêng ấy bạn trẻ đọc sẽ hiểu hơn khi liên hệ thực tại bây giờ, gia đình xa cách, con đi du học, làm ăn ở tận cùng trời đất vẫn có thể nói chuyện, nhìn thấy nhau hàng ngày qua Internet. Ngày ấy, đưa con ra cửa, ra đầu làng, lên xe chuyển quân… có khi con đi bí mật không kịp qua nhà... là thôi, không tin tức, có khi là bặt tin đến tận ngày vĩnh biệt cuộc sống.
Khi máy bay B52 đánh phá khốc liệt vào tháng 12.1972 , Tô Minh Nguyệt viết Thư viết từ Hà Nội cho em trai bộ đội chiến trường. Chị kể về hậu phương chiến đấu, sơ tán, về hồ Hale, về làng Láng. Về phố Khâm Thiên nhà bị trúng bom như những cái ao. Bãi tha ma vừa chôn ông già mù làm nghề tẩm quất nay bom lật tung ngôi mộ.
Chị tả Hà Nội trời đỏ lửa can trường, dưới đất bom rơi đạn nổ, bà con không ở đơn vị chiến đấu vẫn kéo đi lùng sục trong các phố đổ nát để tìm phi công Mỹ bị bắn rơi nhảy dù xuống.
Chị kể các lớp tiếng Anh cho phóng viên tòa báo của mình vẫn học sau khi ngớt còi báo động... Mọi người đều cố gắng trong mọi việc.
Tấm hình nữ minh tinh Mỹ Jan Fonda tặng nhà báo Tô Minh Nguyệt tại Hà Nội năm 1972. |
Trong sách, có một bài khá đặc biệt Tấm hình tuổi 20, Tô Minh Nguyệt kể kỷ niệm đời làm báo, mình được gặp và làm việc với nữ minh tinh điện ảnh Mỹ: Jane Fonda khi đó sang tìm hiểu cuộc chiến đấu của Việt Nam. Jane đã gặp đã khóc trước thực tế mất mát và sự anh dũng hy sinh của Việt Nam mà chỉ sang đây mới biết được.
Tô Minh Nguyệt đến khách sạn phỏng vấn Jane và kể cho Jane nghe chuyện đời thật của mình, về các anh em trai đi chiến đấu, về những thực tế, con người thật mà chị đi đưa tin. Jane đã khóc bao lần nghe chuyện và xin trao đổi ảnh kỷ niệm. Jane đem ảnh Tô Minh Nguyệt về nước và tặng lại tấm hình của mình.
Không biết giờ Jane còn giữ ảnh còn nhớ người không. Còn Tô Minh Nguyệt đã giữ tấm ảnh đó tới tận hôm nay.
Mỗi khi xem phim hay đọc tin tức về Jane Fonda, bây giờ Nguyệt vẫn thầm hỏi: "Jane còn nhớ những giọt nước mắt chị đã rơi ở Hà Nội mùa hè 1972 đó không?”
Tác giả Tô Minh Nguyệt ký tặng sách cho độc giả tại buổi giao lưu. Ảnh: Tạp chí Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh
*
Tôi - người viết bài này - cùng là đồng nghiệp với Tô Minh Nguyệt ngày đó, cùng học tiếng Anh một lớp mà chị tả - do thày Bùi Ý đến tòa báo dạy. Tôi chứng kiến Nguyệt thật xinh đẹp, thật xông xáo, đi đến những nơi bom đạn: về đồng quê, trèo lên trạm khí tượng trên núi, chui dưới hầm lò than Quảng Ninh cùng thợ mỏ và nhọ nhem như thợ mỏ… Thời sống lý tưởng đẹp nhất của chị.
Từ cuộc đời thật ấy, nay đọc sách Thư viết từ Hà Nội, vừa thấy khâm phục bạn mình, vừa tự hào, thương nhớ ngày qua… Tô Minh Nguyệt viết thật tuyệt vời. Người đọc cùng thời với tác giả thấy lại ngày xưa đói khổ mà sống đẹp biết bao. Không ai ích kỷ mà cùng vượt qua đau thương, mơ giấc mơ lớn một đất nước hòa bình, thống nhất.
May mắn đất nước ta có những nhà báo xả thân cả nơi tiền tuyến và hậu phương, họ viết sách viết báo từ các chiến trường, giữ cho lịch sử những sự kiện và bao câu chuyện có thật sống động của người Việt một thời.
Thư viết từ Hà Nội của Tô Minh Nguyệt chính là góp vào cống hiến to lớn, cảm động của các nhà báo chiến tranh trên mặt trận truyền thông.
Tôi cho rằng dù tự nhiên nhưng chị có lối viết Feature hấp dẫn (có thể xem như phóng sự) trong kỹ thuật báo chí hiện đại mà khó ai có thể hư cấu được. Và, đáng tiếc, lối viết ấy ngày càng vắng bóng trên báo chí hiện tại vốn chỉ nặng về tin tức.
Nguyễn Thị Ngọc Hải