Theo một nhà nghiên cứu lịch sử văn hoá Huế đang làm việc ở Đà Nẵng, ấn tượng bảy lần lễ hội festival trước của Thừa Thiên - Huế đều chỉ “gói gọn trong một từ: sân khấu hoá”, nên lần lễ hội này cũng không thể khác: “Mọi du khách sẽ phải thất vọng khi chỉ nhìn thấy sự luẩn quẩn của các kịch bản rực rỡ màu sắc bên ngoài, mà thiếu hụt chất lượng nội dung bên trong”.
Diễn quá hóa lạ
Nhiều người Huế đã theo dõi các kỳ lễ hội của quê hương đều cho rằng, các tiết mục diễn xướng, biểu hiện quá cầu kỳ tại các phiên khai mạc hay bế mạc festival Huế, đã làm thuyên giảm ấn tượng của người xem về một “xứ Huế thật”. Một cựu lãnh đạo sở Văn hoá - thông tin Thừa Thiên - Huế (cũ) nhìn nhận: “Tất cả đều có màu sắc những vở kịch. Từ tái hiện dạ tiệc, biểu diễn hải chiến, tế Nam Giao… gần như từ năm 2000 trở lại đây, festival nào cũng quanh quẩn hình ảnh Huế màu tím đợi chờ, Nam Ai - Nam Bằng khắc khoải, buồn bã, cổ điển một cách ca kịch. Người xem vì thế không đọng lại được điều gì có tính góc cạnh”. Đó cũng là điều được một số người phàn nàn trên các mạng xã hội, như một nick mạng xã hội Facebook ngay sau đêm khai mạc Festival 2014 đã nhận xét: “Festival là một lễ hội, nên tính tự nhiên phải đặt trên hết. Nhưng theo mình thấy, thì đêm khai mạc Festival 2014 lại là một màn “tả pín lù” các thể loại biểu diễn được lôi lên sân khấu…”.
Thực tế ai cũng thấy, rất khó để Huế xác lập nên một bản sắc nghệ thuật trình diễn khác với yếu tố ước lệ sân khấu đã “ăn quá sâu” vào đời sống cung đình cũ. Một nhà nghiên cứu lịch sử Hà Nội từng nhận xét, trong cuộc sống hàng ngày, người Huế xưa nay luôn câu nệ gia phong lễ giáo để giữ thái độ trân trọng và cung kính, lịch sự và cầu kỳ, khi giao đãi với người khác. Phải chăng khi nâng các hành xử giao tiếp ấy lên mức lễ hội nghênh đón khách gần xa, Festival Huế vì thế trở thành một chương trình “xa lạ”, tính hình thức rất cao.
Khi Chủ nhà chỉ đứng xem
Từ sau kỳ lễ hội đầu tiên năm 2000, những lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên - Huế đã nhìn nhận, ý tưởng các đạo diễn người Pháp đưa ra là cần một “sự kiện liên hoan” chứ không phải theo nghĩa “lễ hội”, tức nhấn mạnh đến sự hội tụ của đám đông quần chúng hơn là các hoạt động mỹ quan nghệ thuật mang tính hình thức trên sân khấu.
Ông Nguyễn Xuân Hoa, nhà nghiên cứu Huế, nguyên giám đốc sở Văn hoá - thông tin tỉnh, từng cho rằng ý kiến của các đạo diễn Pháp là đáng quan tâm, và thật tình với các lễ hội 2002, 2004, Huế đã cố gắng thể hiện quan điểm “đưa dân chúng vào vai trò chủ thể lễ hội”. Các mô hình nhà nghỉ trong dân, mở chợ phiên cho người dân “bán hàng tự do trong Festival” đã được đặt ra. Khu vực ngoài cửa Hiển Nhơn (Đại Nội) từng được thiết lập làm chợ mua bán cho người dân, và nhất là yếu tố ẩm thực địa phương được khai thác mạnh qua hàng quán do người dân bán. Song do yếu tố “ước lệ” của giao tiếp ứng xử, những hoạt động ấy chưa thật sự lôi cuốn người dân “nhập hội”. Thậm chí nhiều hình thức “biến tướng” đã xuất hiện bởi các đơn vị thương mại quốc doanh tham gia, khiến người dân Huế có phần dè dặt với các cơ hội “làm ăn trong festival”. Các chỉ đạo hành chính của chính quyền trong tổ chức chương trình lễ hội này càng khiến hình ảnh festival Huế tương tự như các hoạt động sự kiện lễ hội đầy hình thức phô trương đang diễn ra ở các tỉnh miền Trung.
Đó là chưa kể còn có nhiều “hạt sạn” khi chọn các tiết mục văn hoá nghệ thuật ở festival. Một nhà nghiên cứu văn hoá tại Đà Nẵng nhìn nhận: “Quần chúng sẽ nghĩ sao, khi dàn trống trận Tây Sơn ở Bình Định lại đưa ra festival Huế xếp cạnh ca múa cung đình, nhã nhạc? Theo lịch sử, tiếng trống trận Tây Sơn chính là “âm thanh tử chiến” với quân đội triều đình Huế, vậy làm sao mà gán hai dạng sự việc này thành một?”.
Tất cả khiến nhiều du khách từng phàn nàn họ nhìn thấy quá nhiều “sân khấu” tại festival Huế thay vì là những sự kiện đường phố. Rất nhiều người dân Huế ngay trong những ngày Festival 2014 này vẫn tự coi mình chỉ là “kẻ dự khán” thay vì dính kết với vai trò chủ thể.
Bài và ảnh Thụy Bất Nhi