Thường CA 125 sẽ nhỏ hơn 35 đơn vị quốc tế/ ml. Chúng tôi chỉ chẩn đoán chỉ số này tăng ác tính trong trường hợp tăng trên 200 đơn vị/ ml và thường đây là ung thư biểu mô của buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung, thậm chí 40% ung thư phổi thì CA 125 cũng cao. Để chỉ định thì đây là chỉ số tumor marker tiêu chuẩn để theo dõi trong và sau điều trị ung thư buồng trứng.
Hoặc CA 15.3 là một trong những tumor marker thường được chỉ định xét nghiệm. Với CA 15.3 thì chỉ số bình thường của chúng là nhỏ hơn 25 đơn vị, tuy nhiên cũng có thể tăng trong những trường hợp ác tính như ung thư vú, ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư buồng trứng, ung thư phổi và nó cũng có thể tăng trong 1 số bệnh lành tính như bệnh viêm gan, bệnh xơ gan tắc mật, những bất thường của đường mật trong gan, ngay cả những bệnh nhân đang mang thai cũng có thể có CA 125, CA 15.3 cao. Chỉ số tumor marker CA 15.3 còn được dùng để theo dõi và phát hiện sớm đối với các trường hợp ung thư vú.
Hoặc CA 27, CA 29 cũng có thể tăng ở một số bệnh nhân ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư buồng trứng. CA 19.9 cũng là marker rất thường xuyên được yêu cầu để chẩn đoán cho các bệnh nhân ung thư tụy, ung thư buồng trứng, ung thư dạ dày, ung thư đường mật; chỉ số này phải lớn hơn 1000 đơn vị thì mới nghĩ nhiều đến nó. CA 19.9 cũng có thể tăng ở những trường hợp bệnh nhân có viêm tụy, bệnh lý về đường mật, bệnh lý về xơ gan. Với CA 19.9 này thì chúng tôi cũng dùng theo dõi sau điều trị ung thư tụy cũng như ung thư đại trực tràng.
Ảnh: TL
Một tumor marker hay được thử là CAE (glycoprotein), giá trị bình thường là 2.5 nanogram/ ml ở những người không hút thuốc và nhỏ hơn 5 nanogram ở những người hút thuốc. Chỉ số tăng ở trong những bệnh lành tính như những người hút thuốc lá có thể tăng lên 19%, còn những người bệnh nhân của bệnh lý viêm loét đường tiêu hóa, nhiễm trùng vùng chậu, những bất thường đường mật, viêm tụy có thể làm tăng CAE và thường tăng ác tính khi nó lớn hơn 10 nanogram/ ml. Thường chỉ số này sẽ tăng khi bệnh nhân có các bệnh lý như ung thư trực tràng, ung thư vú, ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư phổi,...
Tương tự, CEA cũng được dùng để đánh giá vấn đề đáp ứng điều trị cũng như theo dõi khi bệnh có yếu tố nguy cơ tái phát. Đối với những ung thư đặc thù như Alpha - fetoprotein (AFP) với ung thư gan, đặc biệt với ung thư gan nguyên phát. Nó cũng có thể tăng trong một số bệnh lý bất thường về đường mật như mang thai, nhiễm trùng vùng chậu. Đặc biệt với Alpha-fetoprotein (AFP) chúng tôi dùng để theo dõi, đánh giá, đáp ứng điều trị ở trong một số bệnh về ung thư gan nguyên phát.
Còn PSA là tumor marker rất phổ biến và đặc hiệu trong ung thư tiền liệt tuyến. Nhưng nó cũng có thể tăng trong các bệnh lành tính của tuyến tiền liệt. Thường chỉ số này sẽ tăng ác tính trong tuyến tiền liệt khi mà kết quả PSA lớn hơn 10 nanogram/ ml và thường nó được dùng trong vấn đề tầm soát, chẩn đoán, đánh giá đáp ứng điều trị đối với bệnh ung thư tiền liệt tuyến.
Ngoài ra, còn có rất nhiều tumor marker mà chúng tôi không thể kể hết như Beta HCG, một số về ung thư thần kinh nội tiết, ung thư phổi tế bào nhỏ,... thì đây cũng là một trong những marker ung thư mà căn bản khi đi tới các trung tâm tầm soát thì bệnh nhân thường được thử.
Tốt nhất khi các bạn có kết quả sau khi làm tumor marker thì nên đến gặp các bác sĩ chuyên ngành về ung thư sẽ có một sự giải thích rõ ràng, mạch lạc hơn về chỉ số này để không quá lo lắng làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
BS-CK2. Nguyễn Ngọc Anh
(Nguyên Trưởng Trung tâm ung bướu và y học hạt nhân, Bệnh viện Nhân dân 115, TP.HCM)