Cây bóng mát ven đường là điều dường như hiển nhiên với người Việt. Trong một đô thị lâu đời như Hà Nội, hệ thống cây ven đường lại mang dấu ấn của việc quy hoạch từ cuối thế kỷ XIX khi một thành phố kiểu Tây được xây dựng. Cây đường phố làm nên bức tranh đô thị, vượt ra khỏi chức năng cải thiện vi khí hậu, trở thành một ý niệm văn hóa.
Nhưng cây xanh trên phố không chỉ là sản phẩm của một tư duy đô thị thời thuộc địa. Dấu vết việc trồng cây trên đường phố đã có từ thời các triều đại qua tên đường phố hay các khu vực trong Thăng Long, có lúc mang ý chỉ biểu tượng như “đông hòe tây liễu” xuất hiện từ thời Lý Trần, như các con đường Hòe Nhai, Liễu Giai (“nhai” hay “giai” là hai biến âm của cùng một từ, nghĩa là đường phố).
Người xưa thường trồng các cây có tán sum suê như đa, đề hay dáng cao như gạo, muỗm xung quanh các đền chùa miếu mạo. Trong cảnh quan làng xã hay đồng ruộng, những mái ngói nâu trầm nép dưới các tán cây to trở thành các điểm nhấn. Cây đa bến nước con đò, cây gạo mom sông trở thành mốc không gian đánh dấu nơi đứng chân của cộng đồng người, qua năm tháng trở thành một thành tố trong không gian văn hóa.
Ngay tại Hà Nội, dù yếu tố đồng ruộng không còn, các mốc cây to vẫn cứ chiếm lĩnh không gian cho đến tận thập niên 1990 khi những tòa nhà cao tầng thay thế. Ấn tượng về sự chiếm lĩnh không gian của những cây to biến chúng thành các cột mốc địa lý trong đô thị. Cây gạo cổng đền Ngọc Sơn hay cây đa “Nhà Bò” đã thành những điểm mốc như vậy.
Việc tồn tại một hệ thống các cây to hữu danh trong thành phố đã khiến khung cảnh Hà Nội có tính thiên nhiên hơn. Bản thân Thăng Long - Hà Nội đã hình thành từ việc cải biến địa hình tự nhiên thành nơi cư trú. Những cây lớn có khi mọc lên từ sự bất định của tự nhiên, có khi từ bàn tay con người trồng, chăm, qua sự nắn chỉnh đường phố được cắt đặt kết hợp các công trình là chỉ dấu cho sự hoạch định thiết chế văn hóa.

Cây bên hồ Gươm thập niên 1910. Ảnh tư liệu
Trước hết là những cây đa. Có lẽ địa danh nổi tiếng nhất cho loại cây này chính là gò Đống Đa, nằm cách trung tâm Hà Nội chừng 5km. Ngày nay nhiều người Việt biết đến địa danh này nhờ chiến thắng đại phá quân Thanh mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 của Quang Trung, khi quân Tây Sơn phá đồn Khương Thượng ở khu vực này. Giáo sư Trần Quốc Vượng khi khảo về địa danh này đã nhận định: “Tên xứ Đống Đa đi vào sử sách năm 1724 thì tức là đã có từ trước đó. Mà cái tên Đống Đa xứ thì tỏ rõ trước năm 1724 xứ đó đã có gò, có đống, trên có đa mọc rễ tự lâu rồi” (“Giải ảo hiện thực về xứ Đống Đa và gò Đống Đa”, Nghiên cứu Lịch sử 1.1989).
Chiến thắng lịch sử đã khiến Đống Đa được chọn làm tên gọi một khu vực hành chính lớn của Hà Nội sau năm 1958, rồi là một trong bốn quận nội thành đầu tiên. Cây đa ngày nay có ở khắp các di tích lịch sử, vốn là một loại cây họ dâu tằm, mọc khỏe và nhanh tạo bóng mát, lại có hình dáng nhiều cành và rễ phụ kỳ dị, hợp với thẩm mỹ về cổ tích của người Việt. Họ phủ lên dáng cây một ý niệm về “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Hiện diện bên những đường phố, những cây đa thành dấu vết giúp tạo ra chất liệu của cái “ngày xưa”.
Cây đa khác nổi tiếng trong không gian đô thị lại gắn với một nhà hộ sinh: cây đa Nhà Bò. Nằm trước cửa Nhà hộ sinh B ở số 141 Lò Đúc, cây đa là dấu vết những cái cây mọc tự phát ven đường dẫn ra ngoại ô thuở trước. Phố Lò Đúc có hai đoạn phản ánh rõ rệt dấu vết quy hoạch từ thời Pháp. Từ ngã năm nối tiếp phố Phan Chu Trinh, Hàm Long, Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên đến ngã tư Nguyễn Công Trứ, phố có dáng vẻ khang trang hơn và được trồng hai bên là hàng cây sao đen thân thẳng. Hai hàng cây này đã làm cho phố Lò Đúc nổi tiếng vì nhịp điệu đều đặn của những thân cây màu đen cao lớn.
Ở Hà Nội cũng chỉ có phố Lò Đúc có trồng cây này thành hàng, có lẽ là một thử nghiệm của người Pháp. Nửa phố còn lại chạy đến cửa Ô Đống Mác là phần mang tính chất vùng mới phát triển từ thập niên 1940 về sau, nhà cửa nhỏ bé hơn và cây trồng cũng không còn được bố trí tương xứng với nửa phố trên. Riêng đoạn phố cạnh Viện Vệ sinh dịch tễ giao với phố Yersin mang dấu ấn một đô thị vườn. Ở đây có nhiều cây long não xung quanh các công trình mang phong cách kiến trúc Đông Dương của các viện nghiên cứu y tế. Trước cửa Viện Vệ sinh dịch tễ là hai vườn hoa Pasteur và Yersin, đoạn cuối của một chuỗi các vườn hoa phía đông nội thành, dẫn theo trục Tăng Bạt Hổ - Trần Thánh Tông - Lê Thánh Tông - Lý Thái Tổ.

Đền Voi Phục, bột màu của Văn Giáo, 1957. Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Sự phát triển của đô thị cũng ghi dấu ấn việc trồng cây bóng mát, từ thử nghiệm cho tới dấu ấn trăm năm. Những con đường rợp bóng hai, ba hàng cây như Phan Đình Phùng, Trần Phú (sấu), Hoàng Diệu (xà cừ), Tràng Thi (bàng) cho đến bằng lăng, phượng vĩ hay gần đây là giáng hương, có cả thành công lẫn thất bại. Thời Pháp thuộc, nếu khu phố Tây có vỉa hè đủ rộng và các biệt thự có sân vườn cho cây to phát triển, khu phố cổ lại không có nhiều đất cho cây cối. Năm 1939, Huy Cận khi ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Nông Lâm, sống chung với Xuân Diệu ở căn gác số 40 Hàng Than đã viết:
Phố không cây thôi sầu biết bao chừng!
Chỉ mơ hồ trùng điệp với mông lung,
Buồn vạn lớp trên mái nhà dợn sóng
Trời! Ảo não những chiều buồn Hà Nội,
Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu…
(Trò chuyện)
Khu vực các phố Hàng vốn chủ yếu là những ngôi nhà ống có những khoảng sân trong nhỏ hẹp, đồng thời vỉa hè các tuyến phố này cũng hẹp, không đủ khoảng trống để trồng cây to. Chỉ có những ngôi đền hay chùa ở một số phố có những cây cổ thụ lớn, tạo thành điểm nhấn xanh hiếm hoi. Tâm sự của “chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm” từ làng quê ra thành phố, vốn ưa tìm điểm tựa trong thiên nhiên, dễ thấy phố không cây là một vấn đề.
Huy Cận và Xuân Diệu vài năm sau dọn về số 61 Hàng Bông, cũng vẫn là một phố không có nhiều cây. Đôi bạn Xuân Diệu - Huy Cận sau này sẽ có cơ hội chuyển dịch không gian sống đến những ngôi nhà có nhiều cây hơn, nằm trong khu phố Tây cũ, từ 50 Hai Bà Trưng đến 24 Điện Biên Phủ, tương xứng với địa vị xã hội và chính trị của họ (Huy Cận làm đến chức bộ trưởng). Tất nhiên thơ các ông không còn những chỗ cho bận tâm “phố không cây” mà giờ đây, sống trong “ngôi nhà giữa nắng”.
*
Những cây to ngự trị trong dấu mốc đường phố cũng có sinh có diệt, như cây đa Cửa Quyền ở đoạn giữa phố Hàng Bông cạnh một ngôi miếu đã từng được dân gian dùng để gọi tên đoạn phố này. Người ta không còn biết tới cây hòe nào ở Hà Nội, nhưng cái tên Hòe Nhai vẫn còn, cũng như phố Liễu Giai là một phố mới mở sau này, theo tên ngôi làng nằm trong “thập tam trại”, từng là nơi có dinh thự các bậc vương tôn thời Lý. Hòe, liễu là những loại cây xuất hiện đậm đặc trong từ chương cổ điển, mang nhiều nghĩa biểu tượng, từ học hành, thi cử, hiển đạt đối với hòe, cho đến niềm hoài niệm, chia biệt hay vẻ đẹp thướt tha đối với liễu.
Những cây liễu bên hồ Gươm xuất hiện rất lâu sau địa danh Liễu Giai, vào thập niên 1930 đã trở thành một biểu tượng thẩm mỹ. Tuy cây liễu không đủ cao lớn để tạo thành một mốc đánh dấu không gian như những cây lừng danh ven hồ Gươm như gạo, lộc vừng hay cây mõ, chúng đã trở nên một biểu tượng của thơ mới và tân nhạc, tiếp nối những phép vận dụng điển tích của văn chương cổ điển như Truyện Kiều hay Hoa tiên. Người ta ngợi ca tình yêu trong trẻo bên hồ nước với Bên hồ liễu (Văn Chung, 1936), hay khóc than cho một người đẹp bạc mệnh:
Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh,
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ,
Tôi thấy quanh tôi và tất cả
Kinh thành Hà Nội quấn khăn sô
(Nguyễn Bính - Viếng hồn trinh nữ, 1940)
Liễu trong văn chương cổ điển đã đầy ắp nỗi niềm ly biệt và hoài niệm, cho đến những năm tháng chiến tranh và chia cắt đất nước, những bài hát nhắc đến liễu như một loại cây đại diện cho Hà Nội.
Liễu mọc ở nhiều nơi, nhưng qua lăng kính hoài niệm đã khiến chúng thành cây riêng của Hà Nội, neo lại ký ức của người đã bỏ lại thành phố về những “yêu kiều”, “thướt tha”. Rút cục thì một tập hợp những cây liễu ven hồ đã nhập thành một “cây liễu hồ Gươm” chung. Cũng như tháp Rùa bé nhỏ, hồ Gươm không to, cây liễu Hà Nội trong ký ức âm nhạc có kích cỡ của một cổ thụ.

Cây liễu bên hồ Gươm năm 2017. Ảnh: NTQ
Cho đến gần đây, việc gắn biển những cây di sản hay sự dễ dàng lưu lại hình ảnh qua ảnh chụp mới giúp cho việc nhận ra vai trò của các cây to. Một cái cây từng xuất hiện nhiều trên các quảng cáo thập niên 1930 là “cây thị dốc Hàng Kèn”, ở trước cửa ngôi đền tư, nay còn dấu tích là chiếc cổng kiểu cổ ở số 83 Bà Triệu, ngay cạnh “Nhà thương chữa mắt” (Bệnh viện Mắt Trung ương). Dốc Hàng Kèn chính là đoạn dốc cuối phố Gia Long (đoạn đầu phố Bà Triệu ngày nay), giao với các phố Riquier (Nguyễn Du), Pierre Jabouille (Hồ Xuân Hương) và nối dài với một đoạn phố nhỏ hơn mang tên Lê Lợi (đoạn cuối phố Bà Triệu hiện nay).
Vốn là loại cây chủ yếu mọc ở khuôn viên các ngôi chùa ở nông thôn, thị gợi nhớ câu chuyện cổ tích Tấm Cám, khi mọc lên từ đống tro cây xoan đào ở một ngôi làng. Khi hiện diện ở một địa điểm ven thành phố, cây thị trở thành một sự trở ngại giao thông như trong một bài báo năm 1927:
“Một cái dốc nữa ở cuối phố Gia Long chạy sang dốc Hàng Kèn. Cái dốc đó mới thật nguy hiểm nữa. Đầu dốc thì phố Gia Long ăn chéo thước thợ với phố Doudart de Lagrée [Hàm Long]. Bắt đầu xuống dốc vì có cây thị to, đường chỗ đó vẫn để hẹp quá chừng, độ 5 thước mặt; ngay chỗ trông ra cây thị và bên dưới cây thị có nhiều phố ngang ăn thẳng ra phố Gia Long prolongé [nối dài]... Nhiều lần tôi mục kích thấy xe tay hoặc xe máy tự trên dốc xuống chỗ gốc cây thị, vì đường dốc không kém đường trên núi xuống, nên xe chạy mau quá có nhiều lần không trông thấy những xe ở con đường Jouhaux [Ngô Văn Sở] và Reinach [Trần Quốc Toản] chạy thẳng ra chỗ gốc thị, khi xe các ngả gần đụng nhau mới biết nhiều khi đứng coi thật là nguy hiểm cho người ngồi trên xe quá. Dám mong sở lục lộ Thành phố cho nâng cao cái mặt đường bên dưới dốc Hàng Kèn 1 hay 2 thước tây thì đỡ dốc, xe đi lại đỡ nguy hiểm…” (Đông Hải, “Hà thành ta có hai cái dốc rất nguy hiểm và khó coi”, Thực nghiệp dân báo, 23.2.1927).
Bài báo thực tế chỉ ra một áp lực của việc quy hoạch thích ứng với sự tăng lên của phương tiện giao thông đô thị mà cây thị là một “nạn nhân”. Dĩ nhiên sau đó cây thị không còn do mở đường, cũng như bây giờ ít ai nhớ tên dốc Hàng Kèn. Ngay cả con dốc này cũng đã rất thoải do sự điều chỉnh qua nhiều thập niên, khó hình dung ra sự nguy hiểm của gần 100 năm trước.
Cơ quan thuộc địa liên quan việc trồng cây là Sở Lâm nghiệp (Service Forestier) cũng góp phần tạo ra một địa danh là dốc La Pho cạnh vườn Bách Thảo, được cho là phiên âm từ La Forêt, nghĩa là rừng, do ở đây có vườn ươm của sở này trên khúc sông Tô Lịch cũ chảy giữa đường Hoàng Hoa Thám và phố Thụy Khuê, mà chính con phố sau thời Pháp có đoạn đầu mang tên Pépinière, nghĩa là “Vườn ươm”. Trong khi đó, ngọn núi đất nhỏ trong Bách Thảo mang tên núi Sưa, gắn với loại cây thân gỗ hoa trắng nở vào mùa xuân, một sắc hoa giờ đây cũng được ưa chuộng trong những khung hình về Hà Nội.
Nhưng trong ký ức người thành phố, sự ngự trị của những cái cây còn liên quan những trải nghiệm về không gian văn hóa, như cây thị dốc Hàng Kèn đối với Tô Hoài:
“Những năm trước 60, cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng lắm. Những cây sấu, cây sữa cũng chưa như mấy năm sau phải một trận bom Mỹ đánh sập hai ngôi nhà và mấy gốc cổ thụ. Bờ hè dưới hai hàng cây hiu hắt khơi lại cảnh xưa cũ, còn cái bờ tường đắp dòng chữ xi măng nổi Phúc Đình cha, tên hiệu thuốc sốt rét nổi tiếng một thời. Nhớ cây thị Hàng Kèn đầu Lê Lợi, cuối Hàng Giò nhiều hơn tên phố mới, đối với chúng tôi...
Dốc Cây Thị không còn cây thị, hàng quán chỉ rải rác có buổi. Ngồi đây, đầu phố Hàm Long nhìn sang sở Văn Tự, tưởng như lão Tàu Bay còn gánh phở bán buổi sớm. Cũng cạnh đấy, bên dãy nhà mà thời tạm chiếm Pháp đặt đài phát thanh Con Nhạn của quân viễn chinh, hồi tiền khởi nghĩa, đội AS (ám sát) của Việt Minh đã bắn chết Thiên Nga, nữ đặc vụ của Nhật trong quán cà phê này” (hồi ký Cát bụi chân ai).
Từ một gốc cây không còn, người viết chồng lên lớp lớp cảnh cũ người xưa trong một thành phố đụng đâu cũng có kỷ niệm. Những cái cây có thể biến mất theo lẽ tự nhiên, có khi do sự chặt bỏ của con người, nhưng chắc chắn là thành phố luôn có những cách níu giữ chúng, dù là mộ t khoảng trống của bức tường đã từng có một bóng cây phủ lên đó.
Nguyễn Trương Quý