Ngập lụt phía Tây Hà Nội: Lời giải nằm ở một dòng sông đang bị 'bỏ quên'

 10:15 | Thứ sáu, 21/11/2025  0
Những trận ngập diện rộng do bão số 10 và 11 vừa qua tiếp tục phơi bày những lỗ hổng của hệ thống thoát nước Hà Nội, đặc biệt tại khu vực phía Tây – nơi hạ tầng phụ thuộc lớn vào các dòng sông đã xuống cấp.

Trong cuộc trao đổi với Người Đô Thị, PGS-TS Lưu Đức Hải, Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam, nguyên Chủ nhiệm Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), nhận định việc cải tạo và khơi thông sông Đáy không chỉ là nhu cầu cấp bách để giảm ngập, mà còn là giải pháp chiến lược giúp tái cấu trúc toàn bộ không gian thoát nước của Thủ đô trong bối cảnh khí hậu cực đoan ngày càng gia tăng.

Căn nguyên của tình trạng ngập lụt kéo dài

Theo ông, đâu là những căn nguyên dẫn đến tình trạng ngập lụt thường xuyên tại Hà Nội, đặc biệt là phía Tây?

PGS-TS Lưu Đức Hải, Chủ tịch Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam.

PGS-TS. Lưu Đức Hải: Tình trạng ngập lụt tại Hà Nội xuất phát từ nhiều nguyên nhân, chủ yếu liên quan đến quy hoạch đô thị và quản lý hạ tầng thoát nước. Trước hết, thành phố đã bỏ qua việc quản lý chặt chẽ cốt xây dựng, tức là độ cao cốt nền đất chuẩn cho các công trình. Mỗi khu vực thường áp dụng cốt nền xây dựng riêng biệt, dẫn đến sự không đồng đều.

Ví dụ, nếu một khu vực có cốt nền xây dựng 6m và khu lân cận là 6,5m, dòng chảy nước sẽ bị cản trở, vì hệ thống cống được thiết kế dựa trên cốt chuẩn không thống nhất. Kết quả là nước mưa chỉ tích tụ ở các vùng trũng, gây ngập cục bộ ngay cả với những ngày ghi nhận lượng mưa chỉ ở mức trung bình.

Thứ hai, Hà Nội từng được biết đến như “thành phố hồ” với hệ thống hồ điều hòa phong phú, nhưng giờ đây nhiều hồ đã bị lấp để phục vụ hoạt động xây dựng và mở rộng đô thị. Theo nghiên cứu do một số tổ chức quốc tế thực hiện, hàng loạt hồ đã biến mất, và tình trạng này vẫn tiếp diễn như ở khu vực Gia Lâm hiện nay. Việc lấp hồ làm giảm dung tích chứa nước mưa tự nhiên, khiến nước mưa không có nơi lưu trữ tạm thời, đó cũng chính là một trong những căn nguyên dẫn đến tình trạng úng ngập nhanh chóng như hiện nay.

Thứ ba, việc ngầm hóa các dòng sông và kênh mương – chẳng hạn như một phần sông Sét ở khu vực Bách Khoa (phường Bạch Mai) nay trở thành đường phố – đã gây tắc nghẽn dòng chảy do bùn rác nghiêm trọng, không được nạo vét thường xuyên. Bên cạnh đó, tình trạng rác thải và bùn đất tích tụ dưới đáy sông cũng phần nào làm giảm tiết diện thoát nước, từ đó khiến hệ thống các dòng sông và kênh mương hoạt động thiếu hiệu quả khi mưa lớn xảy ra.

Sơ đồ hệ thống mạng lưới sông hồ của thành phố Hà Nội. Ảnh: TL

Vị trí của sông Nhuệ trong địa giới Hà Nội. Ảnh: VnExpress


Thứ tư, hệ thống thoát nước của Hà Nội phụ thuộc vào các con sông lớn hiện chủ yếu dựa vào hai lưu vực chính: lưu vực nội đô và lưu vực ngoại thành. Trong đó, khu vực ngoại thành phụ thuộc vào dòng chảy sông Nhuệ từ đê sông Hồng qua Hà Đông, xuống Thanh Trì, Từ Liêm rồi đến Phủ Lý. Hệ thống thoát nước khu vực nội thành chủ yếu phụ thuộc vào các sông như sông Tô Lịch, Lừ, Sét và thoát được ra sông Nhuệ khi mực nước còn thấp.

Tuy nhiên, hệ thống thoát nước của hai khu vực không được liên thông với nhau. Khi mực nước dâng cao vượt 4m, cửa xả tại đập Thịnh Liệt sẽ đóng lại, toàn bộ hệ thống thoát nước của thành phố sẽ chịu sức ép gia tăng, buộc phải dựa vào trạm bơm Yên Sở với công suất hạn chế, trong khi còn khu vực ngoại thành sẽ phụ thuộc vào khả năng thoát của sông Nhuệ về sông Đáy tại Phủ Lý.

Bản đồ hệ thống công trình thủy lợi sông Nhuệ năm 2010. Ảnh: Trung tâm Khoa học và Triển khai Kỹ thuật Thủy lợi – Trường Đại học Thủy lợi.


Thời gian vừa qua, chúng ta chứng kiến thực tế rằng khu vực nội đô thoát được nước ngập tương đối nhanh nhờ trạm bơm Yên Sở ra sông Hồng, nhưng nhiều khu vực ngoại ô bị ngập úng nghiêm trọng một phần vì phụ thuộc rất lớn vào hệ thống thoát nước ra sông Nhuệ. Tuy nhiên, trên thực tế, dòng sông này có tiết diện ngang rất hẹp, nhiều năm không được nạo vét khiến cho dòng chảy chậm lại, nhiều đoạn bị tắc nghẽn.

Ngoài ra, các khu vực phía Tây thành phố như Thạch Thất, Quốc Oai, Thanh Oai và Chương Mỹ cũng thường xuyên gặp phải tình trạng ngập úng mỗi khi có mưa xuống do tiếp nhận nước của sông Tích từ Ba Vì và sông Bùi từ Lương Sơn, Hòa Bình. Hệ thống thoát nước tại những khu vực này vốn phụ thuộc vào dòng chảy sông Đáy – một trong những con sông cổ của Hà Nội. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là con sông này đang dần trở thành một “dòng sông chết” khi bị ngăn cách và không được khơi thông dòng chảy.

Cuối cùng, tình trạng bê tông hóa, đô thị hóa khiến nhiều cánh đồng bị xoá sổ, làm giảm khả năng thấm nước tự nhiên, buộc toàn bộ lượng mưa phải đổ vào hệ thống cống – vốn đã quá tải và không thông suốt...

Tổng thể, những nguyên nhân này cho thấy hệ thống thoát nước tại Hà Nội phần nào đang bị cô lập và không được liên thông, thiếu kết nối, dẫn đến tình trạng ngập kéo dài ngay khi lượng mưa chỉ đạt trên 100 - 200 mm.

Thực trạng địa hình hành lang sông Đáy. Ảnh: TL


Ở góc độ chuyên môn, theo ông đâu là bộ giải pháp toàn diện nhất để tái cấu trúc hệ thống thoát nước Hà Nội nhằm giảm rủi ro ngập lụt lâu dài?

Để cải thiện hệ thống thoát nước, thành phố cần triển khai các biện pháp toàn diện, tập trung vào quy hoạch và quản lý. Trước hết, Hà Nội cần đưa ra quy chuẩn thống nhất cốt xây dựng trên toàn thành phố, đặc biệt ở các khu vực hiện mật độ xây dựng còn thấp. Điều này đảm bảo dòng chảy nước đồng đều và hệ thống cống hoạt động được hiệu quả.

Thứ hai, cần xem xét bổ sung kênh thoát nước, thậm chí là các trạm bơm tại những điểm thường xuyên xảy ra ngập úng. Hiện trạm bơm Yên Sở có lưu lượng đạt 90 m³/giây, do đó cần xây thêm trạm bơm phụ trợ nhằm đáp ứng được yêu cầu đặt ra trước bối cảnh thiên tai, mưa lũ sẽ ngày càng khắc nghiệt hơn do tình trạng biến đổi khí hậu. Đơn cử, trong hai trận ngập nghiêm trọng gần đây, khu vực Hồ Hoàn Kiếm, nơi vốn hiếm khi xuất hiện tình trạng ngập úng, cũng đã chứng kiến mực dâng cao.

Kể từ năm 2003, sông Đáy cùng phụ lưu sông Nhuệ bị ô nhiễm nhiều vì nước thải không được khử biến khiến hai dòng sông này bị coi là “sông chết.” (trong ảnh: Sông Nhuệ). Ảnh: TL


Thứ ba, việc thông tắc cống rãnh định kỳ cũng cần được chú trọng hơn, nhằm loại bỏ rác thải và bùn đất, duy trì tiết diện thoát nước. Đồng thời, ở các khu đô thị và công viên, nên hình thành hệ thống chứa nước ngầm tạm thời, như bể chứa nước ngầm. Để xây dựng các bể chứa này sẽ tương đối tốn kém, nhưng đây là giải pháp có thể tính đến, nhằm lưu trữ tạm thời lượng nước lớn, giảm áp lực cho hệ thống chính.

Thứ tư, Hà Nội cần ưu tiên bảo tồn và nạo vét các hồ còn lại để tăng dung tích chứa nước. Thành phố nên dừng việc lấp hồ và khôi phục diện tích mặt nước, biến chúng thành các “bể điều hòa” tự nhiên. Giải pháp này sẽ mang lại lợi ích lâu dài, giúp nội thành thoát nước nhanh hơn và giảm thiểu thiệt hại từ tình trạng mưa lớn.

Cải tạo sông Đáy là giải pháp then chốt

Từng nhấn mạnh việc cải tạo sông Đáy như một giải pháp chiến lược cho khu vực phía Tây Hà Nội, ông có thể giải thích chi tiết về đề xuất này và các lợi ích cụ thể mà nó mang lại?

Tôi tin rằng đã đến lúc Hà Nội cần tính toán đến việc cải tạo và chỉnh trang lại sông Đáy. Đây là giải pháp then chốt để giải quyết vấn đề ngập lụt tại khu vực phía Tây Hà Nội, nơi thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề mỗi khi xảy ra mưa lớn. Việc nạo vét, khơi thông dòng chảy, đồng thời kết nối sông Đáy với sông Nhuệ sẽ là lời giải cho bài toán chống ngập lụt tại khu vực ngoại vi đô thị trung tâm Hà Nội, với nhiều lợi ích hết sức thiết thực.

Trước hết, đây sẽ bước đi tiền đề trong việc quy hoạch hệ thống thoát nước cho các khu vực phía Tây thành phố như: Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất và Chương Mỹ. Với tiết diện rộng và sâu hơn sông Nhuệ, sông Đáy sẽ thoát nước nhanh chóng, giảm tình trạng ngập kéo dài. Điều này không chỉ giảm thiểu thiệt hại không đáng có, mà còn tạo điều kiện phát triển kinh tế cho những vùng ngoại vi này.

Theo chuyên gia, việc kết nối sông Đáy với sông Nhuệ sẽ là lời giải cho bài toán chống ngập lụt tại khu vực ngoại vi đô thị trung tâm Hà Nội (trong ảnh: Sông Đáy). Ảnh: TL


Thứ hai, cải tạo và kết nối sông Đáy sẽ tạo ra tuyến đường thủy liên thông từ Ninh Bình qua Hà Nam đến Ba Vì, thúc đẩy hoạt động du lịch sông nước nhìn về dài hạn. Hà Nội có thể phát triển các tuyến du lịch đa dạng, với các điểm di tích nổi bật như chùa Hương, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào giao thông đường bộ.

Thứ ba, quá trình nạo vét sông Đáy sẽ cung cấp nguồn cát và đất tự nhiên rất lớn, có thể sử dụng trong hoạt động xây dựng, tôn tạo và cải tạo đô thị. Bên cạnh đó, công tác này cũng sẽ giúp giảm áp lực khai thác cát sông Hồng – vốn đã làm hạ thấp mực nước sông Hồng và gia tăng nguy cơ, rủi ro sạt lở.

Thứ tư, nhìn trên bản đồ ta có thể thấy, sông Đáy cũng là một dòng sông chia cắt Hà Nội, nơi mật độ dân số thấp và không xa đô thị trung tâm Hà Nội. Do đó, quy hoạch sông Đáy cũng giải pháp giúp Thủ đô hình thành thêm những đô thị mới dọc theo ven sông với mật độ dân cư thấp trên nền đất cao, và có hệ thống thoát nước tốt. Các khu đô thị mới cách trung tâm 20-30 km sẽ sẽ là động lực giúp giãn dân, giảm mật độ nội thành và thúc đẩy phát triển cân bằng ở những khu vực vệ tinh mới hình thành.

Bản đồ vùng ngập lụt do ảnh hưởng của bão số 11 (MATMO) lúc sáng ngày 9.10.2025, được xử lý bởi Vegascosmos và VSGA từ dữ liệu ảnh vệ tinh Sentinel-2. Ảnh: Vegascosmos


Cuối cùng, sông Đáy có vai trò giảm tải lũ từ thượng nguồn, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và rủi ro địa chính trị ngày càng gia tăng. Hiện nay, các hồ thủy điện như Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang và Thác Bà thường ghi nhận mực nước cao trong mùa lũ, trong khi lưu vực sông Hồng có 48% nằm ở phía Trung Quốc với hàng chục đập thủy điện phía nước bạn đã xây dựng.

Dựa trên thực tế này, nếu xảy ra xả lũ đồng thời ở nhiều hồ thuỷ điện, Hà Nội có nguy cơ sẽ bị ngập vượt đê. Chính vì vậy, cải tạo sông Đáy sẽ giúp tạo lối thoát phụ cho đô thị trung tâm Hà Nội và cả đồng bằng sông Hồng khi gặp sự cố như các lần phá đê tránh lũ cho Hà Nội vào năm 1945 và 1971.

Từ góc nhìn quy hoạch, theo ông quy hoạch tổng thể của Hà Nội đang tồn tại những bất cập gì, và cần ưu tiên giải pháp nào để xây dựng khả năng chống chịu thiên tai lâu dài?

Tôi cho rằng quy hoạch Hà Nội hiện nay tồn tại tương đối nhiều bất cập, cần xem xét lại để đảm bảo tính bền vững. Ví dụ, việc xây dựng hạ tầng đô thị ngoài đê sông Hồng làm thu hẹp không gian thoát lũ, tăng rủi ro ngập lụt toàn thành phố. Tổng thể, quy hoạch phải tích hợp yếu tố môi trường và chống chịu thiên tai, tránh đô thị hóa thiếu kiểm soát.

Hiện thành phố đã có chủ trương quy hoạch đô thị dọc theo hai bên bờ sông Hồng, lấy con sông này làm trục chính, phát triển không gian xanh. Tuy nhiên, sau những trận ngập vừa qua, cần nhìn nhận thẳng thắn rằng chủ trương này đang tiềm ẩn rủi ro rất lớn nếu không được điều chỉnh kịp thời. Sông Hồng vốn là hành lang thoát lũ tự nhiên quan trọng nhất của cả đồng bằng Bắc Bộ. Các công trình kiên cố ngoài đê hoặc trong hành lang thoát lũ sẽ làm giảm tiết diện dòng chảy, tăng vận tốc và mực nước lũ khi có sự cố thiên tai kéo dài.

Quy hoạch đô thị dọc theo hai bên bờ sông Hồng cần phải cân nhắc đến phạm vi hành lang thoát lũ. Ảnh: Kinh tế Môi trường.


Mặt khác, hàng năm sông Hồng tại Hà Nội đều thường có những đợt lũ cấp 2 (~ 10,5m), cấp 3 (11,5 m), nếu hạ tầng đô thị ngoài đê (đường giao thông, nhà cửa, công viên) xây dựng ở cốt cao bằng hoặc thấp hơn mức đó sẽ rất dễ bị hư hại trong lũ.

Vì vậy, tôi cho rằng cần tạm dừng và rà soát lại toàn bộ quy hoạch đô thị dọc hai bờ sông Hồng, đặc biệt các dự án nằm ngoài đê hoặc trong phạm vi hành lang thoát lũ. Thành phố nên ưu tiên kết nối hệ thống thoát nước nội - ngoại thành, bảo tồn không gian xanh và hồ nước, đồng thời áp dụng công nghệ hiện đại như hệ thống dự báo mưa và bơm tự động.

Đồng thời, cần chuyển hướng phát triển đô thị mạnh mẽ hơn về phía Tây và Tây Nam, lấy sông Đáy làm trục chính mới. Chỉ khi đó, Hà Nội mới có thể đối phó hiệu quả với các thách thức từ biến đổi khí hậu, bảo vệ an sinh cho người dân.

Ngọc Phạm thực hiện

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.