Chuyên đề “Nguyễn Thị Bình - Nữ chính khách lỗi lạc”:

"Chị Bình"

 08:02 | Thứ ba, 23/12/2025  0
Trong bài này, tôi chỉ xin kể lại vài kỷ niệm riêng với một nhân vật lịch sử, một phụ nữ lỗi lạc, mà tôi có vinh dự quen biết. Và xin được phép gọi là "chị Bình" với tất cả sự quý mến.

Trong năm năm (1968 - 1973) đàm phán với Mỹ tại Paris, tôi được phong trào Việt kiều tại Pháp đề cử giúp việc phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - chủ yếu là phiên dịch tiếng Pháp cho anh Nguyễn Thành Lê, người phát ngôn, trong các cuộc họp báo ngày thứ năm mỗi tuần - nên ít có dịp trực tiếp giúp việc phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chưa có dịp nào phiên dịch cho chị Bình, nhất là vì chị có thể phát biểu lưu loát bằng tiếng Pháp. Một đôi lần, anh Huỳnh Hữu Nghiệp (được cử giúp việc phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) bị cảm, nên tôi cũng được “vượt tuyến” dịch cho anh Dương Đình Thảo, người phát ngôn, tại cuộc họp báo.

Tuy nhiên, trước năm 1969 (bắt đầu Hội nghị Paris), chị Bình có lần sang Pháp, và sau ngày thống nhất, chị đảm nhiệm chức vụ bộ trưởng giáo dục, tôi cũng đôi lần được gặp chị.

Ngoại trưởng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký hiệp định Paris. Ảnh tư liệu


Nói tới nhà ngoại giao tài năng, sắc bén, bình dị, không thể không nghĩ tới các chị đã sát cánh bên “chị Bình” kiên trì đấu tranh bốn năm trường bên bàn hội nghị ở Trung tâm Hội nghị Quốc tế, đại lộ Kléber, gần Khải Hoàn Môn Paris: Nguyễn Thị Chơn, Đỗ Duy Liên, Nguyễn Ngọc Dung, Phạm Thị Minh, Phạm Thanh Vân. Các chị đã hoạt động cách mạng từ thời học sinh, có người đã vào tù ra khám, đã đảm nhiệm công tác ngoại giao - ngoại giao “chính thức” cũng như ngoại giao “nhân dân” - hết sức xuất sắc, mỗi người một cách, tranh thủ lòng người. Chị Bình và các chị đã để lại trong lòng kiều bào ở Pháp, nhất là với phụ nữ, lòng khâm phục, quý mến và những kỷ niệm sâu sắc.

Ngoại giao “sầu riêng”

Báo chí đã kể nhiều tới thành tích ngoại giao của Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình trong cuộc đối đầu với Mỹ trên bàn đàm phán, với nguyên thủ và ngoại trưởng các nước thế giới thứ ba, sự kiên trì, mềm mỏng mà kiên cường của bà trước các nhà báo quốc tế. Tôi chỉ xin kể lại một câu chuyện nhỏ.

Một buổi tối, tôi được gọi tới trụ sở phái đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trông sang hồ nước xinh đẹp của thành phố Verrières-le-Buisson (ngoại ô phía nam Paris), dự bữa ăn tối chiêu đãi hai nghị sĩ Mỹ sang Pháp theo dõi cuộc đàm phán Việt - Mỹ. Tôi cũng không hiểu tại sao lại được mời dự, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để hiểu chứ nói kém, càng không thể phiên dịch (chị Bình đã có chị Thanh Vân, cựu học sinh Marie Curie, ngồi bên cạnh, một nhà phiên dịch xuất sắc). Tôi đoán già đoán non là cùng đi với hai nghị sĩ Mỹ, có người phụ tá nói tiếng Pháp, nên tôi tự cho mình nhiệm vụ là trò chuyện với họ trong bữa ăn.

Bữa ăn Việt Nam ngon lành, đặc sắc, giản dị, các vị khách ăn ngon miệng, có vẻ hài lòng. Đến khi món tráng miệng được đưa ra, tôi giật mình, lo ngại: kem sầu riêng! Âu Mỹ mấy ai biết và ăn được sầu riêng. Chỉ cái mùi sầu riêng cũng có thể làm cho họ giật lùi từ chối. Một “sự cố ngoại giao” rất có thể xảy ra. Vậy mà hai chính khách Mỹ và mấy người phụ tá đã ăn kem sầu riêng. Không những thế, ăn xong, họ còn xin ăn thêm nữa! 55 năm đã trôi qua, tôi vẫn ghi nhớ bài học “ngoại giao sầu riêng” của chị Bình.

Nền giáo dục “can kê”

Sau khi nước nhà thống nhất, chị Bình đảm nhiệm chức vụ bộ trưởng giáo dục trong nhiều năm. Đôi lần về nước, tôi được đến thăm chị. Chắc thấy tôi sống bằng nghề nhà giáo nên chị hỏi: “Em có ý kiến gì về nền giáo dục nước ta?”. Chỉ là một giảng viên quèn ở khoa toán Đại học Denis Diderot, lại không có trải nghiệm gì về giáo dục Việt Nam, ngoại trừ những kỷ niệm không mấy tốt đẹp về nền giáo dục “Quốc gia Việt Nam” thời tiểu học, “Việt Nam Cộng hòa” thời trung học, tôi thú thật là không có ý kiến cá nhân. Chỉ xin nhắc lại cho chị nghe “kết luận” của Việt, một cháu bé Việt kiều sau một năm về nước học lớp 1 tiểu học.

Năm 1977, học xong mẫu giáo ở Lyon (Pháp), cháu theo cha mẹ (kỹ sư ngành dệt) về nước làm việc. Hai ba tháng sau ngày khai giảng, cô giáo bảo cháu vẽ một con gà trống. Cháu vẽ phóng khoáng theo trí tưởng tượng trẻ thơ, và bị cô cho điểm xấu.

Vài tháng sau, Việt tâm sự với mẹ: “Bây giờ Việt biết làm thế nào để được cô cho điểm tốt”. Mẹ hỏi, Việt trả lời: “Chỉ cần can-kê” (calquer, sao chép nguyên si từng nét của tranh mẫu - NV). Chị Bình yên lặng. Nhưng tôi biết đó là một quan tâm lớn, nếu không nói là mối quan tâm lớn nhất của người phụ trách giáo dục Việt Nam, cũng đã từng đứng trên bục giảng của trường tư thục Huỳnh Khương Ninh Sài Gòn đầu thập niên 1950.

Tình nghĩa

Như đã nói ở đầu bài, anh Huỳnh Hữu Nghiệp và tôi được cử vào giúp đoàn ta, cùng với anh Nguyễn Vĩnh Mỹ. Khi Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, chính quyền Pháp của tướng De Gaulle bắt đầu thay đổi chính sách về Đông Dương. Năm 1959, họ giải thể Hội Liên hiệp Việt kiều, cả Hội Khoa học kỹ thuật. Năm 1965, Paris đề xướng trung lập hóa miền Nam; phong trào Việt kiều “nắn gân” chủ nhà bằng cách vận động thành lập hội, bước đầu là Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam tại Pháp. Tại đại hội thành lập (4.1965), anh Nghiệp được cử làm chủ tịch, tôi làm tổng thư ký.

Một buổi họp báo tại Paris 1973 của ông Lê Đức Thọ, cố vấn đặc biệt của trưởng đoàn đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tác giả (bên phải) là người dịch. Ảnh tư liệu


Anh Nghiệp tốt nghiệp tiến sĩ địa chất học, nhưng được phân công “thoát ly”, dành toàn phần thời gian hoạt động cho phong trào. Phụ cấp khiêm tốn của anh và lương tháng của chị Linh vừa đủ để nuôi gia đình hai con; tôi giảng dạy ở Phân khoa Khoa học Đại học Paris, bảo đảm đầy đủ các giờ dạy, dành thời giờ nghiên cứu vào công tác phong trào, song phong trào không cần trợ cấp sinh hoạt. Những năm làm việc cho hai phái đoàn cũng thế.

Sau Hiệp định Paris, anh Nghiệp được cử công tác tại đại sứ quán Việt Nam tại Pháp, rồi phái đoàn Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc, với chế độ lương bổng của cán bộ trong nước. Đến khi anh về hưu, thu nhập chủ yếu của anh chị là đồng lương hưu của chị Linh, và sự giúp đỡ của hai người con, may thay đã thành đạt. Tình cảnh ấy của anh chị, một vài người trong nước nắm rõ. Nhưng hiểu và thông cảm nhất, phải nói là chị Bình. Tình cờ tôi được biết, qua một anh nhiều năm làm trợ lý cho chị ở Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới, mỗi lần anh có việc qua Pháp, chị Bình đều trích từ lương hưu của chị gửi anh ấy mang sang tặng anh Nghiệp.

Số tiền chắc không lớn. Nhưng nó nói lên tình nghĩa của chị Bình với một người em đã cống hiến cả đời cho việc nước. 

Nguyễn Ngọc Giao

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.