Hà Nội và những nghịch lý của một đô thị đang bứt phá

 11:01 | Thứ ba, 11/11/2025  0
Hà Nội đang phát triển mạnh mẽ, mở rộng không gian và hạ tầng theo nhịp đô thị hóa nhanh. Song ẩn dưới diện mạo hiện đại ấy là nhiều nghịch lý: đường rộng mà vẫn tắc, sông hồ dày đặc nhưng thiếu sự sống, đô thị "phình to" nhưng bản sắc lại chưa phát triển tương xứng...

Hà Nội hôm nay có một di sản văn hóa độc đáo và phong phú, có những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế nhưng cũng đang mang nhiều vấn đề nan giải trong quá trình phát triển. Không khó để có thể nhận thấy thành phố đang đứng giữa những nghịch lý đô thị: Đường mở rộng mà giao thông vẫn ùn tắc, nhà cao tầng mọc cao san sát mà vẫn khan hiếm nhà ở, đặc biệt nhà cho người thu nhập thấp.

Sông, hồ nhiều nhưng bị ô nhiễm, thiếu sự sống của hệ sinh thái tự nhiên và sinh hoạt cộng đồng. Khi nóng bức thì nước sông, hồ cạn thấp và hễ mưa thì đường phố ngập sâu. Con người lệ thuộc vào điều hòa trong các không gian khép kín, khi môi trường không khí và tiếng ồn ngày càng ô nhiễm dày đặc và các công viên được quy hoạch rộng rãi thì bỏ hoang. Nhiều khu đô thị mới hiện đại và quy mô về hình thức nhưng thiếu bản sắc địa phương, còn các làng cổ phát triển thành phố phường thì tự phát quá tải, và bí bích.

Đó không chỉ là bởi sự chưa hoàn chỉnh cục bộ của một bản quy hoạch, mà phản ánh một sự phát triển thiếu hài hòa tổng thể. Hà Nội đang mở rộng với những bản quy hoạch để tăng trưởng quỹ đất đô thị với sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật nhưng di sản văn hóa đô thị và môi trường tự nhiên trong đô thị lại đang chưa được bảo tồn và phát huy tương xứng.

Căn nguyên thứ nhất: Phát triển vì giao thông thay vì tỷ lệ con người

Trong vòng vài chục năm, vùng ven Hà Nội đã thay đổi gần như toàn bộ diện mạo vật chất của đô thị. Những khu phố mới mọc lên với cao ốc, đường vành đai, khu đô thị khép kín, trung tâm thương mại... Nhưng bên trong sự bề thế đó là một tỷ lệ đang bị đánh mất, đó là tỷ lệ giữa không gian đô thị và con người.

Con người, xét về mặt sinh học và bản chất tâm lý, không thay đổi nhiều trong vài trăm năm hay cả ngàn năm ở mỗi vùng đất. Chúng ta vẫn cần vận động cần ánh sáng tự nhiên, không khí trong lành, bóng cây, mặt nước, môi trường để giao tiếp, làm việc, và những khoảng yên tĩnh trong lành để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, môi trường đô thị trên đà phát triển đang làm con người xa cách hơn với những nhu cầu cơ bản đó.

Tư duy quy hoạch hiện đại trong thế kỷ của khoa học kỹ thuật đã đồng nhất phát triển đô thị với giao thông, coi đô thị như một cỗ máy cần vận hành trơn tru tạo ra tối đa hiệu quả vật chất, thay vì xem như một cơ thể cần cân bằng và nghỉ ngơi. Oái oăm thay, càng nhiều đường thì lại càng nhiều phương tiện giao thông cơ giới, lại càng gây tắc đường và ô nhiễm.

Càng nhiều đường được xây dựng thì xe cộ lại càng nhiều, và càng ít chỗ cho người đi bộ. Ảnh: Báo Lao Động


Căn nguyên thứ hai: Đứt gãy mối quan hệ giữa đô thị và tự nhiên

Từ một thành phố của sông hồ và vườn cây, Hà Nội đang dần trở thành thành phố hiện đại của nhà cao tầng gắn liền với hạ tầng giao thông cơ giới. Hệ thống sông hồ, vốn là linh hồn của khí hậu và cảnh quan, bị thu hẹp, cắt khúc, và kè cứng. Những khoảng đệm tự nhiên, vốn là nơi điều hòa nhiệt độ, thấm nước mưa và nuôi dưỡng hệ sinh thái thì bị san phẳng để lấy đất cho hạ tầng giao thông và xây dựng công trình.

Cấu trúc các quần cư ở Hà Nội từng hình thành theo địa hình và mặt nước tự nhiên: các làng cổ thường hướng ra các mặt nước sông, hồ. Mặt nước sông hồ không chỉ là yếu tố cảnh quan mà còn là đường giao thông, lối thoát nước của cho những cộng đồng này. Nhưng quy hoạch đô thị hiện đại lại ép không gian vào hình học của hệ thống giao thông, bất kể địa hình, mặt nước, hay dòng chảy tự nhiên. Chính sự cắt lìa khỏi tự nhiên ấy đã khiến Hà Nội mất khả năng tự điều tiết dẫn đến ngập úng, ô nhiễm, đảo nhiệt.

Tự nhiên vốn là nền tảng cơ bản giúp đô thị vận hành hài hòa và nuôi dưỡng sự sống. Khi ta không coi trọng bảo tồn và phát huy yếu tố tự nhiên trong cấu trúc thành phố, đô thị buộc phải chống chọi bằng các giải pháp kỹ thuật tốn kém và kém hiệu quả như trạm bơm, kè bê tông, điều hòa nhân tạo. Đó là biểu hiện của một đô thị phát triển bằng công cụ kỹ thuật hiện đại, nhưng không còn dựa trên nền tảng tự nhiên để tự cân bằng.

Thành phố thiếu những hạ tầng xanh hỗ trợ thì nhanh chóng "thất thủ" trước sự vận hành của tự nhiên. Ảnh: Báo Nhân Dân


Căn nguyên thứ ba: thiếu một triết lý nhân văn trong mô hình phát triển

Hà Nội nhiều lần thay đổi địa giới, với những dự tính khác nhau. Quá trình sáp nhập và mở rộng Hà Nội với Hà Tây đã tạo ra một nhu cầu đột biến về xây dựng hạ tầng, kéo theo rất nhiều hệ lụy về cấu trúc đô thị và nông thôn truyền thống bị phá vỡ.

Thay vì xác lập một bản sắc đô thị là nền tảng văn hóa và tự nhiên để mọi phát triển xoay quanh, Hà Nội phải chăng đang chạy theo mô hình toàn cầu hóa với những khu đô thị kiểu mới, trung tâm thương mại, cao ốc kính, đường cao tốc... Những dự án khu đô thị phát triển với tốc độ cao, nhưng tinh thần và nhịp sống bản địa thì không được bảo tồn và phát huy.

Chính sự thiếu một bản quy hoạch có triết lý nhân văn khiến Hà Nội phát triển theo kiểu mở rộng quy mô nhưng không phát huy được bản sắc. Mỗi khu vực phát triển như một mảnh ghép rời rạc, không được kết nối bởi hệ giá trị chung là văn hóa và đặc điểm khí hậu của vùng châu thổ Bắc bộ.  

Hà Nội phát triển về kích thước đô thị nhưng không phát triển được tinh hoa văn hóa của đô thị lõi, dẫn đến sự phân cực giữa vùng ngoại vi và trung tâm, càng dẫn đến bất bình đẳng và tăng áp lực di chuyển lệ thuộc giao thông cơ giới. Hình: HWSUD


Căn nguyên thứ tư: Tư duy quy hoạch cơ học, thiếu tính hữu cơ tổng thể

Đằng sau những bản quy hoạch “mở rộng Hà Nội” là một tư duy phổ biến: thành phố được hình dung như một hệ thống kỹ thuật cần được điều khiển và mở rộng theo mô hình cơ giới. Trong cách nhìn ấy, người quy hoạch như kỹ sư thao tác với mặt phẳng, còn đời sống trở thành con số thống kê diện tích, lưu lượng, hoặc mật độ.

Khi quy hoạch bị tách khỏi đời sống vốn dĩ đã hình thành những dạng thức qua nhiều thế kỷ, đô thị bị định hình bởi bản vẽ hơn là bởi con người. Những quảng trường được định vị nhưng không gắn liền với khí hậu hay văn hóa đô thị của người Á Đông. Công viên được vẽ ra nhưng chưa để ý đến nhu cầu và tâm lý của cộng đồng sử dụng nên bỏ hoang giữa lòng đô thị. Những yếu tố vô hình – ký ức, thói quen, âm thanh, nhịp sống – vốn tạo nên linh hồn đô thị, lại không có vị trí trong bản vẽ quy hoạch.

Tư duy cơ học ấy còn khiến mọi vấn đề đô thị bị “kỹ thuật hóa”, tắc đường thì mở đường, ngập nước thì lắp bơm, ô nhiễm thì dựng trạm quan trắc. Mỗi giải pháp là một mảnh vá, thiếu liên hệ với tổng thể. Càng can thiệp, thành phố càng mất cân bằng – giống như một cơ thể bị chữa sai bệnh, mỗi lần chạm vào là một lần tổn thương mới.

Một đô thị nhân văn phải được nhìn như một hệ sinh thái hữu cơ, nơi mà văn hóa bản địa, môi trường thiên nhiênhạ tầng đô thị gắn liền, tương hỗ với nhau chứ không chứ không chỉ là tổng cộng các thành phần một cách máy móc rời rạc. Khi quy hoạch quên mất điều đó, thành phố gây ra nhưng bất hợp lý, có tài nguyên văn hóa và thiên nhiên nhưng không được phát huy, hao tổn năng lượng vận hành nhưng không có hiệu quả cho người dân đô thị

Không gian đô thị của Hà Nội đang bộc lộ sự thiếu gắn kết hữu cơ giữa Văn hóa bản địa, Môi trường thiên nhiên và Hạ tầng thiết kế đô thị tương ứng. Hình: HWSUD


Căn nguyên thứ năm: Đứt đoạn ký ức – văn hóa đô thị

Hà Nội từng là thành phố của những hình ảnh gần gũi nơi mỗi con ngõ, mái nhà, hàng cây đều là những hình ảnh thân quen gợi một tầng văn hóa châu thổ Bắc bộ. Nhưng quá trình phát triển nhanh đã khiến những hình ảnh thân quen đó dường như không còn được coi trọng và văn hóa đô thị bị xem nhẹ.

Những khu phố cổ, vốn là không gian sống tinh tế, hòa hợp giữa con người và tự nhiên, nay bị biến thành “bảo tàng du lịch” đông đúc. Trong khi đó, các khu đô thị mới mọc lên lại không mang dấu ấn địa phương, mà lặp lại công thức toàn cầu như nhà kính, đường thẳng, cây cảnh trồng sẵn, quảng trường bê tông…

Khi ký ức đô thị không được tiếp nối, con người đánh mất điểm tựa tinh thần để gắn bó với nơi mình sống. Một thành phố không còn khả năng kể chuyện về chính mình sẽ trở nên trống rỗng, dù bề ngoài có hiện đại đến đâu. Sự đứt gãy này không chỉ nằm trong kiến trúc, mà còn trong tâm thế cư dân với nhịp sống gấp gáp, thiếu tương tác cộng đồng, sự thờ ơ với không gian chung, và lối sống “đóng cửa trong căn hộ”… tất cả khiến Hà Nội dần đánh mất chất “người Hà Nội” từng là niềm tự hào.

Những khu đô thị hiện đại nhưng mang ngôn ngữ công nghiệp không có bản sắc địa phương. Ảnh: VnExpress


Căn nguyên thứ sáu: Cơ chế quản trị và cộng đồng đô thị bị tách rời

Một thành phố không thể phát triển bền vững nếu thiếu sự đồng hành giữa quản lý và cộng đồng. Nhưng trong nhiều năm, Hà Nội vận hành theo mô hình quản trị tập trung, nơi quyết định quy hoạch, xây dựng, hay chỉnh trang phần lớn đến từ “trên xuống”, còn người dân dường như chỉ là đối tượng chịu tác động.

Khi cư dân ít hoặc không được tham gia vào quá trình hình thành không gian sống, không gian công cộng trở thành nơi “của chung nên chẳng của ai”, còn các dự án phát triển dễ vấp phải phản ứng xã hội hoặc vận hành kém hiệu quả.

Một Hà Nội bền vững chỉ có thể hình thành khi người dân không còn là “khán giả” của quy hoạch, mà trở thành người đồng sáng tạo đô thị cùng chính quyền và các nhà chuyên môn.

Hà Nội có rất nhiều sông hồ, mặt nước nhưng chỉ một số rất nhỏ ở trung tâm phát huy tác dụng cảnh quan, trở thành không gian đa năng cho người dân. Đa phần còn lại bị ô nhiễm, lãng quên hoặc bị xâm phạm trong sự phát triển gấp gáp của đô thị. Ảnh: Hiện trạng Hồ Linh Đàm, Google Image


Sáu căn nguyên trên, dù biểu hiện ở nhiều góc độ khác nhau, từ không gian, tự nhiên, văn hóa đến thể chế, đều quy tụ về một điểm chung rằng Hà Nội đang có nguy cơ phát triển thiếu hài hòa và bền vững trong tổng thể – khi phát triển đồng nghĩa với khối lượng và tốc độ phát triển hạ tầng mà đời sống văn hóa đô thị mang bản sắc riêng và môi trường tự nhiên lại bị bỏ quên.

Tuy nhiên, nhìn sâu vào những vấn đề nan giải đó, ta cũng thấy một cơ hội lớn lao: bởi chính trong bộn bề, Hà Nội có thể bắt đầu quá trình điều chỉnh, tái sinh – không phải bằng những dự án tương lai đòi hỏi những điều kiện kỹ thuật xa vời, mà bằng sự quay trở về nhìn lại những giá trị nền tảng để thay đổi trong cách định nghĩa về đô thị: coi thành phố như một cơ thể sống, nơi con người, tự nhiên và văn hóa cùng hài hòa chung một nhịp.

Còn tiếp...

KTS. Trần Tuấn (Nhóm nghiên cứu không gian mặt nước Hà Nội - HWSUD)

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.