Tìm tiền nhân xưa
Là người học sử, làm báo, có kinh nghiệm nghiên cứu trong và ngoài nước, tác giả Trần Hữu Phúc Tiến sở hữu nguồn tư liệu phản ánh vai trò “kinh đô sông nước” của Sài Gòn vô cùng đa dạng, trải dài từ những pho sử nổi tiếng như Hoàng Việt nhất thống dư địa chí, Gia Định thành thông chí… đến các cuốn sách biên khảo về Sài Gòn và Nam bộ của những học giả như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Vương Hồng Sển, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Đình Tư... Không dừng ở đó, ông còn đào sâu vào những ghi chép của người nước ngoài khi đến nước ta cũng như báo chí nhiều giai đoạn.
Cũng không thể không nhắc đến những chuyến đi thực địa cận cảnh, từ đó kết hợp cả cách nghiên cứu trong “tháp ngà” lẫn thực tế đời sống. Đơn cử mở đầu cuốn sách, ông đã nhìn thấy mối liên hệ giữa Sài Gòn và yếu tố sông nước không phải qua những trang sử xưa, mà là nhiều hình khắc nổi trên Cửu đỉnh trước sân Thế Miếu trong Hoàng thành Huế cách đây hơn 200 năm.
Như ông chia sẻ, tại chiếc đỉnh bề thế nhất nằm ở trung tâm, ngay đường Thần Đạo, là một hình khắc Ngưu Chữ Giang (tức sông Sài Gòn) bên cạnh hình khắc Đông Hải (tức Biển Đông) với đường nét mây trời khoáng đạt, sóng nước uốn khúc... Bên cạnh đó, những chiếc thuyền không chỉ để giao thương mà còn gìn giữ biên giới như đa sách thuyền, lâu thuyền, ô thuyền, đỉnh thuyền... cũng được chạm khắc. Theo tác giả, những điều này cho thấy ngay từ rất sớm, Sài Gòn đã được xem là một trong những cửa ra vào Biển Đông quan trọng bậc nhất của nước ta.

Tác giả Trần Hữu Phúc Tiến khảo cứu hình khắc Ngưu Chữ Giang (tức sông Sài Gòn) trên Cao đỉnh (chiếc đỉnh bề thế nhất thuộc Cửu đỉnh trong Hoàng thành Huế), tháng 4.2025. Ảnh: TLNV
Đi sâu hơn về lịch sử, một trong những đóng góp quan trọng của tác phẩm là tác giả đã truy nguyên “thủy tổ của người Sài Gòn”. Theo đó, dựa trên các di chỉ khảo cổ như Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt, Giồng Am tại cửa biển Cần Giờ, ông nhận định những người đầu tiên hiện diện trên miền đất này vào khoảng 3.000 năm trước và nhiều khả năng chủ yếu là dân chài, gắn bó “ruột rà” với sông, biển, ghe, thuyền. Họ quen sống cuộc đời di chuyển, gặp gỡ người bên ngoài chứ không cố định ở một nơi hay chỉ cư trú ở những giồng đất và cù lao khép kín. Mặt khác, rất có khả năng “những người tiên phong” là từ vùng thượng lưu sông rạch hay rừng núi, hải đảo gần đó đổ về, không nhất thiết là người sinh ra tại chỗ.
Về mặt địa lý, tác giả cũng cho thấy vị trí thuận lợi của cửa biển Cần Giờ (mà nối tiếp là Cần Đước và Vũng Tàu) khi là một vịnh nhỏ, giúp tàu thuyền tránh được giông bão bất trắc. Ngoài ra, Cần Giờ cũng có nguồn nước ngọt từ sông suối và giếng ngầm, thu hút quần tụ. Người dân nơi này ngoài nghề chài lưới và săn bắt thú rừng cũng biết làm muối, làm đồ vật bằng đất nung từ sớm. Cũng vì điều này mà cư dân Champa ở miền Trung, Indonesia và các đảo trong các vùng biển kế cận không những dễ dàng ghé vào mà còn dừng chân nơi đây để mua bán và giao lưu với cư dân bản địa.
Thêm vào đó, người miền xa vào Cần Giờ cũng có khả năng đi ngược dòng sông, từ đó khám phá các vùng đất và nguồn hàng mới rồi chẳng bao xa họ sẽ gặp được vàm Bến Nghé - địa điểm tiếp tục dẫn ra nhiều nơi chốn rộng hơn, có tiềm năng sinh lợi và sinh sống lâu dài. Đây có thể nói là đóng góp quan trọng trong việc tìm về “cuống rốn” Sài Gòn theo hướng nghiên cứu mới mẻ, qua đó cũng dẫn về một điểm chung: Sài Gòn là nơi quần tụ, giao thoa văn hóa của nhiều sắc dân.

Hai bờ Thủ Thiêm và Bến Nghé. Ảnh: Phúc Tiến
Cũng như những công trình khác, lịch sử tiếp nối sau khi khai khẩn cũng được tác giả Trần Hữu Phúc Tiến nhắc lại. Nhưng thay vì những thế lực liên tiếp gối đầu qua các trận đánh, âm mưu chính trị… ông khai thác khía cạnh “vi lịch sử” gắn với sự thay đổi của các địa danh cụ thể, từ đó cho thấy đây là vùng đất trải qua rất nhiều biến động.
Chẳng hạn với Vàm Bến Nghé, ông cho thấy vào năm 1620, khi vua Chân Lạp cưới con gái của chúa Nguyễn thì trên đường vượt trùng khơi, chắc hẳn đoàn thuyền xuất phát từ Phú Xuân đã phải tạm dừng ở Sài Gòn nghỉ ngơi, trước khi đi tiếp đến kinh đô Oudong. Để rồi 3 năm sau đó, chúa Nguyễn đưa quân binh đến Sài Gòn để lập đồn thu thuế giao thương. Tiếp tục 3 thế kỷ sau, nơi này trở thành trạm Gia Tân thuộc hệ thống dịch trạm (một dạng bưu điện, nơi tiếp nhận và chuyển công văn giấy tờ cho triều đình bằng sức người sức ngựa) do nhà Nguyễn xây dựng trước khi trở thành Sở Thương cảng do Pháp dựng lên. Điều này còn chưa tính đến tòa thành đồ sộ hình bát giác vững chắc có một cửa hướng ra nơi này thời đầu triều Nguyễn, là nơi giao chiến khốc liệt giữa quân ta với liên quân Pháp - Tây Ban Nha năm 1859…
Nỗi lòng người con…
Không dừng ở một nghiên cứu mang tính học thuật, cuốn sách cũng được làm dịu bởi những suy tưởng miên man và cách kể chuyện thú vị của tác giả. Vượt khỏi góc nhìn cần sự trung dung, nghiêm cẩn của một tác phẩm nghiên cứu, cách tác giả hồi cố khi nhìn ra sông Sài Gòn, nhìn thấy những nhà máy, con tàu lúc còn bé rồi thời thanh niên, hay thuật lại một “tour” trở lại Kinh thành Gia Định hơn 200 năm trước với một ông cụ mặc áo dài đen, đội khăn đóng xưa... vô cùng gợi nhớ.
Thêm vào đó, người viết cũng gây bất ngờ khi khai thác nhiều chủ đề cụ thể, độc đáo gắn với sông nước, từ việc lắp đặt đường cáp điện báo dưới biển từ Sài Gòn đến Hồng Kông, xoáy sâu vào các địa điểm như Bình Quới, Cần Giờ, bán đảo Thủ Thiêm... cho đến những giếng nước cổ, tháp nước xưa và “thủy thần công nghiệp” là các tháp nước mang tính biểu tượng... Cuốn sách còn mang đến một kho hình ảnh độc đáo, bao gồm tem, bưu thiếp cũng như ký họa của người nước ngoài, qua đó Sài Gòn sinh động qua tranh cũng được hiện lên.
Từ dòng sông của lịch sử, Sài Gòn - Kinh đô sông nước mở ra dòng chảy suy tưởng hướng đến tương lai, khi tác giả Trần Hữu Phúc Tiến mang đến những đóng góp, kiến nghị quan trọng trong việc tạo ra sự hài hòa giữa gìn giữ di sản và phát triển thành phố theo hướng bền vững. Điều này giúp cho cuốn sách không chỉ phù hợp với các độc giả yêu lịch sử, yêu Sài Gòn, mà còn là một tư liệu cần thiết cho các nhà nghiên cứu, nhà quy hoạch và cơ quan chức năng để thận trọng hơn trong quá trình xây dựng chính sách phát triển đô thị.

Sách do NXB Trẻ ấn hành tháng 9.2025, hội đủ yếu tố tư liệu văn bản, hình ảnh phong phú và diễn biến thời sự độc đáo. Ảnh: NXB Trẻ
Điều đó đi từ những hành động nhỏ như cần có thêm những tiểu cảnh, phù điêu hay bia kỷ niệm và cả tượng đài khắc ghi lịch sử và tri ân tiền nhân ở những địa điểm mang tính biểu tượng như Vàm Bến Nghé, bến phà Thủ Thiêm, nhà máy Ba Son... cho đến có thể phục dựng và làm mới cuộc thao diễn quân sự vào mỗi dịp rằm tháng Giêng vào thời Tổng trấn Lê Văn Duyệt để tăng thêm hoạt động lễ hội đặc sắc của thành phố… Ông cũng đưa ra nhiều đề xuất lớn, như từ di chỉ Giồng Cá Vồ, Cần Giờ có thể phát triển dự án bảo tàng, tái hiện sống động sinh hoạt của cư dân cổ vùng Nam bộ. Nhìn rộng ra hơn, ông nhận định Cần Giờ, Bình Quới có ưu thế lớn để xây dựng “khu vực không khói”, hướng đến phát triển điều dưỡng, nghỉ dưỡng, nhiều ngành tiên tiến khác…
Xoay trục về tương lai, ông cũng đề xuất những chính sách mới, từng bước tạo ra hành lang tân tiến dọc hai bờ sông Sài Gòn cho 20 năm tới và xa hơn nữa, cũng như trong bối cảnh hợp nhất giữa TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu, hứa hẹn xây dựng một nền kinh tế sông biển phát triển và bền vững hơn... Những điều này cho thấy nhãn quan bao quát ở nhiều khía cạnh và sự nặng lòng của một trí thức, của một người con yêu tha thiết Sài Gòn - TP.HCM, từ đó lan tỏa thêm nữa tình yêu với thành phố này đến thế hệ sau như một mạch nguồn nối tiếp bền sâu từ những thế hệ tiền nhân.
Minh Anh