Thư trong những năm tháng chiến tranh

 10:35 | Thứ bảy, 08/11/2025  0
Ngày 9.10 hàng năm được Liên minh Bưu chính Quốc tế (Universal Postal Union - UPU) kỷ niệm như là Ngày Bưu chính thế giới, viết tắt là WPD (World Post Day) để nâng cao nhận thức về bưu chính viễn thông và vinh danh những người đóng góp cho sự nghiệp bưu chính viễn thông. Vào ngày này người ta tổ chức nhiều hoạt động như triển lãm tem đặc biệt, hội thảo về lịch sử ngành bưu chính hay UPU tổ chức cuộc thi viết thư quốc tế dành cho thiếu niên.

Nếu có ai hỏi tôi là trong những năm tháng gian khổ dài đằng đẵng của chiến tranh người ta mong đợi gì nhiều nhất thì tôi sẽ trả lời không ngần ngại: thư! Đúng vậy, những năm tháng xa cách, những gia đình xa cách, những cuộc đời xa cách… người ta chẳng trông chờ gì hơn là tin tức về những người thân yêu của mình từ chiến trường xa (cha, mẹ, chồng, con, người yêu…), nhất là khi không ai biết khi nào thì cuộc chiến ác liệt đó sẽ chấm dứt (1).   

Tôi đã chứng kiến những người mẹ, người vợ, người con gái… (rất tiếc là không có điều kiện được biết về những người lính) đọc đến thuộc lòng những lá thư đã cũ và nhàu nát của người thân. Những lá thư đó khi đến tay người nhận thì có thể là người gửi đã không còn sống, có thể ngay cả những người chuyển nó cũng đã hy sinh… Vậy nhưng nó vẫn được tiếp nhận như là mới chỉ gửi ngày hôm qua. Người nhận thư muốn được hét lên, được khoe với tất cả những người họ gặp rằng con tôi, chồng tôi, người yêu tôi còn sống, đang khỏe mạnh, rất nhớ tôi và nhất định sẽ trở về… Bà nội hai của tôi (2) cũng như bao nhiêu người mẹ khác đã sống với niềm tin, sự chờ đợi chú tôi như vậy nhiều năm sau khi chiến tranh đã kết thúc.  

Tôi xin dành những dòng trân trọng nhất cho những bức thư như vậy. 

 1.

Đã có một cuộc tranh luận về việc trong thời gian chiến tranh những bức thư được gửi từ chiến trường miền Nam ra Bắc như thế nào. Do may mắn được biết đôi chút việc này, xin viết lại để những ai quan tâm có thể tham khảo; đồng thời thể hiện sự tưởng nhớ của tôi đối với những người đã “đi B” (3) vào đầu những năm 1960. Ký ức này cũng thể hiện lòng biết ơn của tôi đối với đồng bào đã đùm bọc chúng tôi trong những năm tháng chiến tranh phá hoại (Mỹ leo thang ném bom miền Bắc).

Mùa hè năm 1965, hai anh em tôi đi sơ tán theo trại trẻ của Ban Thống nhất Trung ương (4) tại xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất (trước thuộc Hà Tây, nay là Hà Nội). Hạ Bằng là một xã thuộc vùng bán sơn địa hẻo lánh, nhà cửa thưa thớt nép dưới những rặng tre. Nhà của đồng bào nói chung rộng rãi, có sân, vườn, đặc biệt là có những chiếc giếng đá ong rất sâu nước trong vắt, mát lạnh và uống có vị ngọt. Xen giữa các ngôi nhà là những vườn chè, nương sắn; các thôn trong xã chia cách với nhau bằng những ruộng lúa, mương nước rộng mà hai bên bờ những hàng cây lộc vừng xõa tóc soi bóng… 

Có lẽ vì cả hai lý do địa hình và chính trị này mà Ban Thống nhất Trung ương cũng như Ban Tuyên huấn Trung ương (hai cơ quan của Đảng) đều chọn Hạ Bằng làm nơi sơ tán cho cán bộ của mình, đồng thời cũng tổ chức trại trẻ sơ tán cho con em cán bộ trong cơ quan. Như các gia đình sơ tán khác, hai anh em chúng tôi được đưa về sống ở nhà của đồng bào địa phương. Ngày đó bà con Hạ Bằng thường nhường cho những người sơ tán vị trí thoáng mát, sạch sẽ nhất trong ngôi nhà của mình. Khi biết chúng tôi là con em miền Nam tập kết ra Bắc và phải sống xa cha mẹ thì bà con lại càng yêu quý hơn.

Trong những đơn vị của Ban Thống nhất Trung ương sơ tán tại Hạ Bằng, có một đơn vị tiếp nhận thư của cán bộ đi B chuyển từ miền Nam ra. Đơn vị đó khá nhỏ, chỉ gồm hai người là chú Bé và cô Nhiễm (?). Hàng tuần ô tô của Ban Thống nhất Trung ương từ Hà Nội lên thường đem theo những túi vải bạt lớn màu xanh lá cây căng phồng. Đó là túi đựng các bức thư được gửi qua các con đường giao liên, xuyên rừng lội suối, từ chiến trường miền Nam ra Bắc. Nhiệm vụ chính thức của bộ phận này nghe nói là kiểm duyệt xem trong các bức thư có viết những điều gì làm lộ bí mật hay không. 

Chúng tôi biết về việc này là do được huy động đến ngôi nhà làm việc của bộ phận tiếp nhận thư để cắt phong bì và nấu (khuấy) hồ dán hàng tập giấy màu xám xi măng thành phong bì thư. Chúng tôi lớn nhất trong trại trẻ sơ tán (14 - 15 tuổi) và do công việc quá nhiều, chú Bé và cô Nhiễm không thể làm xuể nên đã được huy động. Hình như hàng tuần chúng tôi có được trả một khoản tiền nho nhỏ tính theo số lượng phong bì làm ra. Mỗi ngày chúng tôi cắt, gấp và dán cả ngàn chiếc phong bì như vậy.

Các bức thư vượt rừng núi Trường Sơn từ miền Nam ra được đổ xuống nền nhà. Chú Bé hay cô Nhiễm sẽ cắt miệng của tất cả các phong bì để có thể lấy thư ra. Thư sẽ được cho vào một phong bì mới (do chúng tôi cắt dán) và ghi địa chỉ nơi gửi là một hòm thư ở miền Bắc cùng với địa chỉ của người nhận (đúng như trên phong bì cũ), rồi dán tem gửi đi. Về hình thức, việc này làm cho bất cứ người nào cầm phong bì không nghĩ là bức thư được gửi từ chiến trường và sẽ không gây tò mò về những bức thư bất thường cũng như sự vắng mặt bất thường của một thành viên nào đó trong gia đình nhận thư.

Vài trang trong hàng triệu lá thư chiến trường nay đã thành kỷ vật. Ảnh: CTV


Gọi là kiểm duyệt nhưng thực tế chẳng có sự kiểm duyệt nào ngoài việc thay đổi phong bì thư (vì chẳng thể nào đọc hết được hàng đống thư cao lớn như vậy). Đôi khi thấy những bức thư chữ đẹp thì cô Nhiễm thường đọc to lên cho mọi người cùng nghe. Là trẻ con nên chúng tôi rất tò mò, thích được nghe cô Nhiễm đọc những bức thư “tình cảm”. Đó thường là những bức thư gây chú ý nhất, được “kiểm duyệt” nhiều nhất.

Ban đầu thì việc lấy thư và ghi địa chỉ lên phong bì phải do chú Bé và cô Nhiễm làm, nhưng rồi do nhiều quá, việc đó cũng được giao cho bọn trẻ chúng tôi. Bọn trẻ con đôi khi cũng rất thích thú được “kiểm duyệt” thư, tìm được đoạn nào “mùi mẫn” là to giọng đọc cho tất cả cùng nghe và bình luận… Tôi nhớ những lá thư mà chúng tôi nhận được ngày đó đều được viết tối thiểu từ 5 - 6 tháng trước, có bức với ngày viết trên thư cách hàng năm trời mới đến được chỗ chúng tôi. Phần lớn thư đều được gửi ra từ chiến trường Khu V, nhiều nhất là từ tỉnh Quảng Đà, rất ít thư từ Khu VI và Nam bộ. Tôi rất có ý thức tìm trong những đống thư đó xem có bức thư nào của người thân trong gia đình mình đi B gửi ra hay không, nhưng không thể nào tìm được.

Có thể số thư mà chúng tôi nhận và trung chuyển chỉ là thư của các cán bộ đi B do Ban Thống nhất Trung ương quản lý là chính, trong số đó không có nhiều thư của các đơn vị bộ đội. Đầu những năm 1960 các đơn vị bộ đội vào Nam chiến đấu chưa nhiều, phần lớn là các đơn vị đã tập kết từ Nam ra Bắc quay trở lại miền Nam. Những đơn vị này khi vào đến miền Nam thường được chia nhỏ và phân về các tỉnh làm nòng cốt cho lực lượng quân sự và cả chính quyền dân sự của ta. Tôi có người cậu chỉ huy một đơn vị như vậy trở về miền Nam sau này là lãnh đạo của Khánh Hòa, quê ngoại tôi.

Thời gian đầu việc đi B được thực hiện rất bí mật. Gia đình tôi có khá nhiều người đi B vào thời kỳ này. Mỗi người trước khi đi sẽ phải tập trung khám sức khỏe, nếu đủ điều kiện thì sẽ tập trung rèn luyện thể lực (chủ yếu tập vác nặng, đi bộ, leo núi…) và một số kỹ năng khác trong khoảng 6 tháng. Trước khi đi, mỗi người được cấp một ba lô với khá nhiều vật dụng để băng đèo lội suối về Nam theo phương pháp “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng”.

Ngoài quần áo, súng lục và võng, tôi nhớ là trong hành trang của những người đi B thường có một lọ muối tiêu, lọ mì chính (bột ngọt) và một vài củ sâm khô… Những người ra đi đợt đầu tiên đó gặp không biết bao nhiêu là khó khăn, gian khổ và rất ít người trở về sau 1975. Trong gia đình tôi, ba người ra đi vào đầu những năm 1960 thì chỉ có một người trở về. Nhiều người thậm chí hy sinh khi chưa về được đến quê hương như trường hợp dượng tôi. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là thành ủy viên Sài Gòn - Gia Định, đầu năm 1960 được gọi quay trở lại thành phố nhưng trên đường vào Nam đã bị phục kích và hy sinh trên Tây Nguyên. 

Không biết có còn ai nhớ đến những bức thư vượt Trường Sơn ngày đó hay không? Còn có ai nhớ những chiếc phong bì màu xi măng cắt bằng kéo và dán bằng hồ với những dòng chữ đôi khi là của trẻ con ngày đó? Tôi luôn tự hào là mình đã từng được góp phần kết nối tình cảm giữa chiến trường và hậu phương.

Từ cuối những năm 1960 thì sự đi lại giữa hậu phương miền Bắc và chiến trường miền Nam khá nhộn nhịp. Việc đi B không còn quá bí mật, những gia đình có người đi B có thể tự hào khoe việc này cũng như chia sẻ những tin tức nhận được với láng giềng. Lúc này đã có những cán bộ đi B từ đầu những năm 1960 được đưa ra miền Bắc để chữa bệnh, điều dưỡng trong nước và nước ngoài (các nước Đông Âu và Liên Xô). Thư từ lúc này có thể được gửi theo khá nhiều đường khác nhau, trong đó có việc nhờ người quen ra Bắc mang theo và chuyển cho gia đình.

Tôi không biết là vào đầu những năm 1970 thì có còn việc chuyển thư theo đường giao liên như trong những năm 1960 mà chúng tôi đã làm trung chuyển nữa hay không.

 2.

Năm 1968 tôi tốt nghiệp phổ thông và được gửi đi Liên Xô học đại học. Ngày đó để chuẩn bị cán bộ cho việc xây dựng và phát triển đất nước khi hòa bình lập lại, ở miền Bắc hàng năm nhà nước gửi hàng ngàn học sinh tốt nghiệp phổ thông sang các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu du học. Những bộ môn khoa học được ưa chuộng nhất lúc đó là vật lý, toán học, hóa học, sinh học… hoặc những ngành nghề nghe rất kêu mà lũ thanh niên mới lớn bước ra từ chiến tranh như chúng tôi không hiểu là gì, như điều khiển từ xa, vận trù học, hóa dầu…

Nếu những ngày đầu sơ tán ở Hạ Bằng tôi là người chuyển thư thì bây giờ, (khi theo học đại học tại Liên Xô), tôi lại là người mong những bức thư gửi từ Việt Nam, từ một nơi xa hàng ngàn cây số mà hàng ngày bom đạn đang trút xuống…

Năm đầu tiên, khi còn học tiếng Nga ở khoa Dự bị Đại học Hóa dầu Baku, số lượng sinh viên Việt Nam rất đông (khoảng vài trăm) cho nên những khi bưu điện mang thư đến thì cũng là cảnh tượng những chiếc túi bưu điện căng phồng thư được đổ ra trên bàn. Mọi người cùng lao vào nhặt thư chứ không chờ nhân viên bưu điện phân vào các hộc để thư có chữ cái đầu tiên tên của người nhận.  

Tôi luôn nhớ cảnh tượng lòng mình nao nao buồn mỗi lần nhìn những phong bì thư ngày đó. Vì sao ư? Bạn hãy nhớ rằng trong những năm tháng chiến tranh, ở miền Bắc đến tờ giấy cũng thiếu. Trong đoàn lưu học sinh Việt Nam tại khoa Dự bị Baku năm đó có hơn 2/3 là học sinh ra đi từ vùng nông thôn. Hãy hình dung những người nông dân chân lấm tay bùn chỉ biết cấy cày và nếu cần thì cầm súng trường bắn máy bay, làm sao có được một chiếc phong bì gửi thư cho đàng hoàng, làm sao có thể đồ lại chính xác những dòng địa chỉ bằng chữ cái Nga hoặc chữ La tinh loằng ngoằng mà nhiều con chữ không có trong bảng chữ cái tiếng Việt…

Tác giả (bìa phải) cùng cha mẹ và các em. Ảnh tư liệu gia đình, chụp trong giai đoạn chiến tranh trước 1970.


Những phong bì thư gửi từ một đất nước chiến tranh nghèo khó trông thật cảm động. Phong bì được cắt từ giấy vở học trò hoặc bất cứ giấy gì có được và dán bằng hạt cơm cho nên khi gặp khí hậu hanh khô ở nước ngoài thì phần lớn đã bị bong hở. Mặc dù nhiều trường hợp không thể nào đọc hay là đoán được địa chỉ nơi nhận trên phong bì, nhưng rất may là các nước đều có số chi nhánh bưu điện nên đã giúp cho những bức thư có thể đến được tay người nhận. 

Đường đi của những bức thư đó cũng không hề nhanh chóng và đơn giản vì chúng được gửi từ những vùng thôn quê hẻo lánh, chỉ riêng việc người bưu tá ở xã lên được đến bưu điện huyện, rồi sau đó thư được chuyển về Hà Nội để gửi ra nước ngoài là cả một chặng đường dài hàng tháng trời.

Nhìn những chiếc phong bì lem luốc đó tôi không hề cảm thấy xấu hổ mà rất thương cho những người nông dân chân lấm tay bùn, những người gánh lên đôi vai bé nhỏ của mình cả đất nước, cả vận mệnh dân tộc trong chiến tranh. Không biết có ai đã từng xấu hổ khi nhận những phong bì thư nhàu nát, rách rưới ngày đó hay không nhưng rõ ràng trong con mắt của các nhân viên bưu điện sở tại thì chúng khá bất thường. 

Trong khóa dự bị ngày đó nhiều người sau này trở thành những kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, những nhà khoa học và có người lên đến chức vụ lãnh đạo các cơ quan, lãnh đạo đất nước liệu có nhớ đến những bức thư đẫm nước mắt của người gửi thư đã chịu đựng gian khổ cho mình đi học thành người?

3.

Gần đây, có một lần cháu tôi nói: “Chán nhỉ, bây giờ chỉ toàn nhận email, chẳng làm sao có lại được cái cảm giác khắc khoải mong đợi một bức thư và trái tim mình đập loạn nhịp khi nhìn thấy những dòng chữ thân thương trên phong bì và trong những lá thư như trước kia”. Phải chăng đây là một trong những mất mát lớn nhất mà công nghệ ngày nay đem lại cho chúng ta? 

Trong tâm khảm của thế hệ chúng tôi vẫn còn in đậm nét chữ của cha, mẹ, người thân và người yêu của mình. Trên đời này có hàng tỷ con người, nhưng nét chữ thì chẳng ai giống ai. Thời đó chỉ nhìn thoáng nét chữ trên phong bì là có thể nhận biết ngay đó là thư của mình. Các chú tôi đã hy sinh từ lâu trong chiến tranh, tôi chỉ còn nhớ lờ mờ hình bóng các chú, nhưng những lá thư các chú gửi cho tôi từ chiến trường thì nội dung và nét chữ tôi không thể nào quên được (mặc dù chúng cũng đã thất lạc từ rất lâu rồi). Các cháu của tôi, thế hệ trẻ sinh ra từ những năm 1990 sẽ chẳng bao giờ còn có được cảm xúc đó nữa. Thật đáng tiếc.

*

Ông viết lại điều này để các cháu của ông biết rằng đã có thời gian mà sự nhớ nhung, mong đợi của ông bà, cha mẹ các con bị kéo dài hàng tháng trời chứ không phải mọi thông tin có thể gửi và nhận chỉ trong “một nốt nhạc” qua email, Zalo, Viber, WhatsApp hoặc Messenger…, có thể nói chuyện online nhìn thấy mặt nhau như các con bây giờ đâu nhé. 

Nguyễn Bá Sơn - Nguyên Đại sứ Việt Nam tại CHLB Đức

______________

(1) Khoảng 3 năm đầu sau khi ký kết Hiệp định Genève 1954 giữa hai miền Nam Bắc có tồn tại bưu thiếp. Hàng tuần có chuyến bay của các thành viên Ủy ban quốc tế đi công tác giữa Hà Nội và Sài Gòn đồng thời kết hợp chuyển những bưu thiếp này ra Bắc vào Nam. Với thời gian rất ngắn, số lượng rất hạn chế và có lẽ còn do lo ngại bị chính quyền của cả hai bên biết về mối quan hệ của mình với bên “thù địch” nên những tấm bưu thiếp này rất ít được sử dụng và sớm rơi vào quên lãng 
(2) Ông nội tôi có hai vợ. Bà nội đẻ ra ba tôi đã mất năm 1955
(3) Đi B vào đầu những năm 1960 hoàn toàn khác với việc những đơn vị bộ đội lên đường vào Nam chiến đấu trong thời gian sau này. “Đi B” lúc đó là một từ thiêng liêng và là điều bí mật được giữ kín trong những gia đình có người thân nhận được nhiệm vụ cao quý này
(4) Trong thời gian chiến tranh chống Mỹ có hai ban Thống nhất: Ban Thống nhất Trung ương là của Đảng và Ban Thống nhất của Chính phủ.

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.