Từ vụ uỷ thác tiền gửi ở vietinbank: Tố tụng và niềm tin kinh doanh

 21:04 | Chủ nhật, 11/05/2014  0

Trở lại vụ án Huyền Như, sơ đồ phạm tội lược giản như sau: vì biết tiền của khách hàng đã gửi vào Vietinbank, Huyền Như làm giả hồ sơ (con dấu, chữ ký, sổ tiết kiệm…). Sau đó, cầm sổ tiết kiệm, nhân danh khách hàng thế chấp ở chính Vietinbank để vay tiền, chi tiêu cho mục đích riêng. Khi phát hiện tiền đã bị Huyền Như rút mất, để tránh thiệt hại, Vietinbank “thu hồi nợ” bằng cách lấy luôn các khoản tiền (thật) của khách hàng nằm trong sổ tiết kiệm (giả), thay vì nhận trách nhiệm và tìm cách hoàn trả tiền cho khách hàng.

Huyền Như lừa đảo ai?

Một điều không ai phủ nhận, từ kết luận điều tra đến cáo trạng hay xét hỏi tại toà, tiền của khách hàng gửi đã vào đến Vietinbank, qua hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước. Lấy trường hợp của ACB làm thí dụ, ngay khi phiên toà đang xét xử, một nhân viên của ACB tên Phạm Công Hoàng (người được uỷ thác đi gửi tiền tại Vietinbank) vẫn nhận được thư thông báo về số dư 950 triệu đồng trong tài khoản Vietinbank. Đây là một minh chứng cho thấy 32 hợp đồng vay mà nhân viên ACB ký với Vietinbank vẫn đang được Vietinbank quản lý và thực hiện bình thường.

Trước đó, khi nhân viên ACB được uỷ thác đi gửi tiền, đại diện Vietinbank (bà Nguyễn Thị Minh Hương và ông Trương Minh Hoàng – các phó giám đốc chi nhánh) có ký hợp đồng thật, hợp pháp, đóng dấu thật của Vietinbank. Sau đó, một số khoản tiền gửi đã tất toán cũng do chính Vietinbank chi trả. Những động thái trên của Vietinbank và bản án buộc Vietinbank chuyển trả lại cho ACB số tiền 24 tỉ đồng vẫn còn trong tài khoản của các nhân viên ACB tại Vietinbank chứng tỏ một điều: tiền gửi ở trong Vietinbank và Huyền Như rút tiền từ Vietinbank.

Đặt giả thiết, nếu hành vi lừa đảo hoàn thành khi tiền chưa chuyển vào Vietinbank, như vị chủ tịch hội đồng quản trị Vietinbank tuyên bố, thì Huyền Như làm giả hồ sơ, giả chữ ký của khách hàng với mục đích gì?

Bất nhất trong sử dụng chứng cứ

Vietinbank thoát nợ bởi cơ quan tố tụng chứ không phải luật pháp, một luật sư phân tích. Lấy ví dụ của ACB, ông cho biết, nếu cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng hợp đồng uỷ thác của lãnh đạo ACB cho nhân viên mình là trái pháp luật, bị vô hiệu, dẫn đến 32 hợp đồng tiền gửi cũng vô hiệu theo, thì Vietinbank vẫn phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho ACB toàn bộ các khoản tiền gốc đã nhận là 669 tỉ đồng theo quy định tại điều 137 bộ luật Dân sự, chứ không thể “quỵt” tiền như thể vô can được. Đã có người đặt câu hỏi: Vietinbank có phần lớn vốn nhà nước, phải chăng cơ quan tố tụng vẫn quen kiểu tư duy “những gì của nhà nước thì quan trọng hơn của dân”?

Mặt khác, cùng một hành vi, cùng một hậu quả, nhưng cơ quan tố tụng lại tự mâu thuẫn khi đưa ra hai kết quả khác nhau. Cụ thể, với hành vi Huyền Như làm giả hồ sơ vay vốn tại ngân hàng VIB thì xác định Huyền Như chiếm đoạt tiền vay của VIB. Trong khi đó, cũng là hành vi thế chấp giả, hồ sơ vay giả tại Vietinbank với cùng tính chất, thì cho rằng Huyền Như không chiếm đoạt tiền của Vietinbank. Tóm lại, khi kết tội cán bộ Vietinbank, hội đồng xét xử không thừa nhận hợp đồng cầm cố giả, nhưng khi Vietinbank thu nợ vay trái pháp luật, thì lại thừa nhận hợp đồng giả này. Với kiểu lập luận đó của cơ quan tố tụng, ACB bỗng trở thành nạn nhân, bị Huyền Như chiếm đoạt tiền.

Câu hỏi lớn cho ngành tư pháp

Trước đó, trong hai lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, viện Kiểm sát đã yêu cầu cơ quan điều tra xác định trách nhiệm của Vietinbank đối với hơn 1.400 tỉ đồng tiền gửi của ACB, Navibank, công ty cổ phần chứng khoán Phương Đông (ORS), công ty An Lộc tại ngân hàng  này. Tuy nhiên, tại cáo trạng cũng như phiên xử, người giữ quyền công tố lại “trở ngược” quan điểm: Vietinbank không phải bồi thường.

Trong các dấu hiệu cấu thành tội tham ô, hành vi của Huyền Như thỏa mãn tất cả: vừa là người có chức vụ, quyền hạn (quyền giám đốc phòng giao dịch ngân hàng có vốn nhà nước) vừa là người có trách nhiệm quản lý tài sản (kiểm soát, xét duyệt các chứng từ chuyển tiền, rút tiền, giao dịch khác trên tài khoản…). Vậy tại sao Huyền Như lại “thoát” được tội đáng phải chịu? Câu hỏi đó sẽ còn là câu hỏi lớn cho ngành tư pháp .

Với Huyền Như, nếu bị quy tội tham ô cả ngàn tỷ đồng, mức án có thể là tử hình; khác với tội lừa đảo, án cao nhất chỉ chung thân. Về trách nhiệm bồi thường dân sự, chủ nợ sẽ phải “méo mặt” khi Huyền Như không còn tài sản.

Với Vietinbank, nếu Huyền Như bị khép tội tham ô, Vietinbank không thể chối bỏ được trách nhiệm phải bồi thường toàn bộ cho khách hàng, còn nếu không, ngân sách sẽ phải bồi thường và sau đó, Vietinbank sẽ đòi lại từ Huyền Như.

Theo dõi toàn bộ phiên xử hình sự sơ thẩm Huyền Như vừa qua, dường như luôn có một sự phối hợp thống nhất, nhịp nhàng giữa các cơ quan tố tụng và Huyền Như - bị cáo đầu vụ - trong việc xác định hành vi lừa đảo. Phía buộc tội bỏ qua tất cả lập luận, phản bác của những người tham gia tố tụng.

Người chịu tội vui vẻ, nhanh nhảu nhận tội, dù biết tổng số tiền bị quy “lừa đảo” lớn hơn số tiền lừa đảo được. Phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Vietinbank - thì lấy sự im lặng làm đầu trước búa rìu của luật pháp và dư luận. Chưa kể, nếu làm đến nơi đến chốn, trách nhiệm pháp lý của ngân hàng Nhà nước cũng cần phải đặt ra.

Một cán bộ đã làm việc nhiều năm tại ngân hàng chia sẻ, ngân hàng không cẩn thận để nhân viên của mình rút ruột tiền gửi của khách hàng thì ngân hàng tự gánh lấy, đó là chuyện nội bộ của ngân hàng. Với bên ngoài, “anh” vẫn phải “ngậm đắng nuốt cay” để tươi cười trả đủ tiền cho khách. Đó là đạo đức, là chữ tín không thể chối bỏ trong kinh doanh. 

Ở phiên phúc thẩm, cho dù Vietinbank vẫn thoát nợ nhưng trong mắt khách hàng  - người dân và cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp trong, ngoài nước - Vietinbank đã trở thành người bội tín. 

Sau vụ xử Huyền Như, nhiều người cho rằng phải bổ sung gấp một loại rủi ro mới trong danh mục quản trị rủi ro của ngân hàng - rủi ro về niềm tin!

Hà Thanh

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.