Đứng đầu bảng xếp hạng là 10 cái tên quen thuộc: Melbourne (Úc), Vienna (Áo), Vancouver (Canada), Toronto (Canada), Adelaide (Úc), Calgary (Canada), Sydney (Úc), Helsinki (Phần Lan), Perth (Úc) và Auckland (New Zealand).
Úc xứng đáng là cường quốc về chất lượng sống vì ngoài Melbourne đứng đầu bảng, đất nước chuột túi còn góp thêm ba đại diện trong top 10. Nếu tính cả Auckland của New Zealand nữa thì châu Đại Dương chiếm đến phân nửa trong mười nước dẫn đầu. Bắc Mỹ góp mặt ba đại diện, đều thuộc Canada. Châu Âu có Vienna xếp thứ nhì và Helsinki xếp thứ tám. Như vậy, trong mười thứ hạng cao nhất thì Úc - Âu – Bắc Mỹ thống trị hoàn toàn.
Khung cảnh ấn tượng của Helsinki (Phần Lan)
Ở cực kia của bảng xếp hạng thì châu Phi và châu Á chiếm đa số. Vị trí 140 đến 131 lần lượt là các thành phố: Damascus (Syria), Dhaka (Bangladesh), Port Moreby (Papua New Guinea), Lagos (Nigeria), Karachi (Pakistan), Algiers (Algeria), Harare (Zimbabwe), Douala (Cameroon), Tripoli (Libya) và Abidjan (Bờ Biển Ngà). Châu Phi góp sáu đại diện, châu Á ba, còn lại là Port Moreby của châu Đại dương. Trong khi hai người láng giềng cùng châu lục chiếm nửa top 10, thì Papua New Guinea lại đứng thứ ba từ dưới đếm lên.
Chất lượng sống phục hồi, bất ổn vẫn đe doạ
Phân tích kết quả khảo sát 2014, EIU khẳng định: chất lượng sống toàn cầu đang phục hồi, nhưng tình trạng bất ổn vẫn là mối đe doạ.
Vienna (Áo) từng là thủ đô của đế quốc lớn Âu Châu nên hiện có nhiều di tích lịch sử để tham quan.
Nhìn chung, thứ hạng trong khảo sát này không thay đổi nhiều qua các năm. Melbourne vẫn giữ vững vị trí dẫn đầu, theo sau là thủ đô nước Áo, thứ ba là Vancouver – thành phố vốn dẫn đầu trước năm 2011. Chỉ có 9 thành phố thay đổi thứ hạng trong sáu tháng qua, và 20 thành phố (14%) đổi hạng so với năm ngoái. Hơn một nửa thay đổi diễn ra trong 12 tháng qua là sụt hạng do bất ổn. Những sự kiện ở Ukraine khiến các thành phố Kiev, Moscow và St. Peterburg rớt hạng. Sự mất ổn định cũng tác động xấu đến vị trí của Bangkok. Điểm của Damascus ở Syria cũng tiếp tục giảm.
Đa số các thành phố cải thiện thứ hạng nhờ đã tương đối ổn định trở lại sau xung đột. Tehran của Iran, Tripoli của Libya và Amman của Jordan đã phục hồi nhẹ sau khi rớt hạng đáng kể vào năm qua. Zimbabwe dần ổn định, tạo đà cho thành phố Harare lên hạng về mức độ “đáng sống”, mặc dù nó vẫn còn nằm ở đáy của bảng xếp hạng.
Ở cấp độ toàn cầu, bạo động ở những điểm nóng khiến điểm số trung bình về độ ổn định của thế giới tiếp tục giảm. Điểm trung bình về độ “đáng sống” của thế giới hiện nay là 75,33, đã giảm 0,16 điểm so với sáu tháng trước và 0,22 điểm so với năm ngoái.
Vancouver (Canada)
Còn nếu nhìn tổng thể 5 năm, thì chất lượng sống thế giới đã giảm 0,68 điểm, chứng tỏ rằng năm năm qua tình trạng bất ổn tăng cao trong bối cảnh toàn cầu đã làm suy yếu nỗ lực phát triển của những thành phố tốp dưới thông qua các chính sách công và đầu tư công. Trong năm năm qua, 82/140 thành phố đã thay đổi vị trí trong khảo sát, và 51 trong số đó tụt hạng về mức độ “đáng sống”.
Trong nhóm dẫn đầu, nhiều thành phố đã hồi phục từ khủng hoảng toàn cầu và khu vực đồng euro nhưng chính sách thắt lưng buộc bụng cũng làm chậm lại quá trình cải tiến, dẫn đến kết quả là điểm số hầu như giữ nguyên. Điểm số của những thành phố đáng sống nhất chênh lệch nhau rất ít. Melbourne hạng nhất và Santiogo (Chile) hạng 64 chênh nhau chỉ 16,8 điểm, đều cùng thuộc nhóm có chất lượng sống tốt nhất (điểm tổng hợp trên 80).
Điểm chung của những đô thị đáng sống nhất
Sự tương quan là khá rõ ràng giữa những thành phố chiếm hạng cao nhất. Những đô thị đạt điểm ngất ngưởng thường là những thành phố cỡ trung bình ở các nước giàu, với mật độ dân số tương đối thấp. Điều này cho phép hàng loạt hoạt động giải trí diễn ra mà không dẫn đến mức độ phạm tội cao hay làm quá tải cơ sở hạ tầng. 8/10 thành phố trong top 10 nằm ở châu Úc và Canada, với mật độ dân số lần lượt là 2,88 và 3,40 người/ km2. Phần Lan và New Zealand có mật độ 16 người/ km2. Mật độ trung bình của thế giới là 45,65 và của Mỹ là 32. Nước Áo đi ngược lại xu hướng này với mật độ trung bình trên 100 người/ km2. Tuy nhiên, dân số Vienna chỉ là 1,7 triệu người, khá nhỏ so với những đô thị lớn như New York, London, Paris hay Tokyo.
Một công viên ở Toronto (Canada)
Cũng có thể lập luận rằng tội phạm bạo lực đang có xu hướng gia tăng ở những thành phố trong top đầu, nhưng các quan sát này không phải lúc nào cũng đúng. Vancouver cho thấy tỉ lệ giết người thấp kỉ lục, sau một thập kỉ liên tục giảm, khiến tỉ lệ này chỉ còn 1,5 trên 100.000 dân. Mặc dù tội phạm được nhận định là đang gia tăng ở Úc, tỉ lệ giết người chỉ là 3,1 trên 100.000 dân ở bang Victoria nơi Melbourne toạ lạc (năm 2012 – 2013). Ở Áo thì tỉ lệ này là 0,9, với 24 vụ giết người ở thủ đô 1,7 triệu dân. Để tiện so sánh, EIU dẫn chứng tỉ lệ của thế giới là 6,2 trên 100.000 dân, của Mỹ là 4,8, New York là 4,0 và Detroit là 47,5. Ở Nam Phi, tỉ lệ là 31,3.
Đặc biệt, các trung tâm thương mại toàn cầu lại có xu hướng là nạn nhân từ chính sự thành công của chúng. Không khí đầy phấn khích của đại đô thị có thể là gánh nặng của cơ sở hạ tầng và làm gia tăng tỉ lệ tội phạm. New York, London, Paris và Tokyo là đều những cái tên danh giá với vô số hoạt động giải trí, nhưng tất cả đều phải chịu đựng tỉ lệ tội phạm cao cũng như tắc nghẽn giao thông. Câu hỏi đặt ra là thu nhập cao và sự thoả mãn sở thích muốn sống ở một thành phố danh tiếng có thể bù đắp cho những nhân tố khác không. Thực tế cho thấy các trung tâm thương mại toàn cầu dù xếp hạng thấp hơn trong khảo sát, nhưng vẫn nằm trong nhóm dẫn đầu về chất lượng sống, nên chúng ta cần xem xét một cách rộng rãi hơn khi so sánh các thành phố với nhau.
Cuối cùng, EIU đề nghị, các công ty cần đền bù vào lương cho người lao động khi chuyển họ đến làm việc ở các thành phố có điều kiện sinh hoạt đặc biệt khó khăn, môi trường không lành mạnh.
Tiêu chí đo mức độ “đáng sống” Thang độ “đáng sống” (liveability) là thước đo xem địa điểm nào trên thế giới cung cấp những điều kiện sống tốt nhất hay tệ nhất. EIU cho điểm các thành phố dựa trên năm hạng mục: sự ổn định (chiếm 25% tổng số điểm), chăm sóc y tế (20%), văn hoá và môi trường (25%), giáo dục (10%) và cơ sở hạ tầng (20%). Tổng hợp năm hạng mục trên là mức độ “đáng sống” của mỗi thành phố, theo khảo sát của EIU. Mức trên 80 điểm nghĩa là không có hoặc có rất ít thách thức đối với cuộc sống. Trong khoảng 70 đến 80 điểm thì đời sống hàng ngày nhìn chung là tốt, nhưng một vài khía cạnh có thể gặp vấn đề. 60 đến 70 điểm nghĩa là các yếu tố tiêu cực đã tác động đến cuộc sống thường nhật. Ở mức 50 đến 60 điểm thì chất lượng cuộc sống bị hạn chế đáng kể. Còn từ 50 điểm trở xuống thì quả là trái nghĩa với “đáng sống”: hầu hết các khía cạnh của đời sống bị hạn chế nghiêm trọng. Năm hạng mục đo mức độ “đáng sống” đều dựa trên những chỉ số cụ thể. Sự ổn định biểu hiện qua năm chỉ số: tỉ lệ tội phạm ít nghiêm trọng, tỉ lệ tội ác liên quan đến bạo lực, nguy cơ khủng bố, nguy cơ xung đột vũ trang và nguy cơ nội chiến. Trong top 10, có ba thành phố đạt điểm tối đa (100) cho tiêu chí này: Toronto, Calgary của Canada và Helsinki của Phần Lan. Ít ổn định nhất là những thành phố thuộc Syria (15 điểm), Pakistan (20) và Nigeria (25). Chất lượng chăm sóc y tế được đo bằng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế tư nhân cũng như y tế công cộng và chất lượng của hai loại hình chăm sóc sức khoẻ này, khả năng tiếp cận các loại thuốc mua không cần toa, và các chỉ số sức khoẻ chung theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới. Các thành phố đáng sống nhất đều chăm sóc rất tốt sức khoẻ cư dân: ngoài Auckland thì chín thành phố còn lại trong top đầu đều đạt 100 điểm cho hạng mục này. Harare của Zimbabwe với 20,8 điểm xếp cuối bảng, tiếp theo là Douala (Cameroon) với 25 điểm. Mục văn hoá và môi trường có số lượng chỉ số phong phú nhất (chín), bao gồm đánh giá về độ ẩm và nhiệt độ; nỗi khó chịu của du khách do khí hậu gây ra; mức độ tham nhũng; những hạn chế do xã hội hay tôn giáo quy định; độ ngặt nghèo của kiểm duyệt; hoạt động thể thao; hoạt động văn hoá; đồ ăn thức uống; hàng hoá và dịch vụ. Vancouver là thành phố duy nhất đạt điểm tuyệt đối về văn hoá, môi trường, còn Tripoli của Libya (37 điểm) và Karachi của Pakistan (38,7 điểm) nghèo nàn nhất về mặt này. Giáo dục được đánh giá dựa và khả năng tiếp cận và chất lượng trường tư, cũng như các chỉ số giáo dục chung theo Ngân hàng Thế giới. 9/10 thành phố dẫn đầu (trừ Helsinki) đạt 100 điểm mục này, trong khi 7/10 thành phố ở tốp cuối dưới điểm trung bình. Cơ sở hạ tầng được chấm điểm trên bảy tiêu chí: chất lượng mạng lưới đường bộ, chất lượng giao thông công cộng, chất lượng kết nối quốc tế, khả năng tiếp cận nhà ở chất lượng cao, chất lượng cung cấp năng lượng, nước sạch và chất lượng dịch vụ viễn thông. Có bốn thành phố trong top 10 đạt 100 điểm cơ sở hạ tầng, trong khi chỉ ba thành phố trong nhóm cuối trên trung bình. |
Thi Diên (tổng hợp từ báo cáo của Economist Intelligence Unit)