Những đứa con lưu lạc của làng Dâu

 23:29 | Thứ ba, 03/05/2016  0

Quê nội tôi rất nghèo, họ hàng cũng chỉ còn vài ông bác họ rất xa nên mãi đến năm 2000 

tôi mới về đấy lần đầu tiên, đi theo cô em gái về xây mộ ông cố. Ngày xưa gọi là làng Dâu, chắc là cả một biền dâu xanh mướt bên bờ sông Trường Giang, làng xóm hẳn còn xum xuê, có thể có cả nghề ươm tơ dệt lụa không chừng, nhưng nay thật thương hải tang điền, chỉ còn là một trảng cát nắng chang chang, mọc toàn gai lưỡi long, và một bãi tha ma mênh mông. Tôi, đứa con lưu lạc, tôi đi thắp hương các mộ, em gái tôi chỉ đâu thì tôi thắp đấy chứ có biết ai vào ai đâu. Cuối cùng em tôi bảo: “Còn hai nấm mộ này nữa, anh à”. Hai nấm mộ bé tí, hai tấm bia đá cũng bé tí, ghi dòng chữ rất lạ: “Mộ người vô danh họ Nguyễn”. Thì ra đấy là mộ một người anh và một người em tôi, mạ tôi có thai rồi bị sẩy, không sinh được, hai con người chưa được làm người một ngày nào đó được gọi là “người vô danh họ Nguyễn” và vẫn có mồ mả hẳn hoi. Ngày xưa người ta ăn ở trên đời chu tất vậy đó. Tôi bàn với em gái xây lại cả hai ngôi mộ ấy thật đàng hoàng. Ba tôi là con nhà nghèo của một vùng quê nghèo, ông tôi đi lính cho triều đình thì cũng có địa vị gì đâu. Mạ tôi lại thuộc dòng dõi danh giá, tôi chắc ba tôi lấy được mạ tôi là vì ông đã may mắn được ra học ở Huế, có đỗ đạt, làm đến “thầy thông giây thép”, ngày ấy cũng đã danh giá lắm.

Về phía nội, tôi còn có mấy ông bác và chú, đều là con bà nội Huế, và đều đặc biệt. Một ông bác đi lính, nhưng là lính kèn, ở trong đội nhạc nhà binh nổi tiếng của ông Quản Liên, gọi là Đội nhạc Tòa Khâm, tức Tòa Khâm sứ Trung kỳ, từng được đi biểu diễn tận hội chợ Paris. Ở Huế, cứ chiều thứ Bảy, đội nhạc Tòa Khâm lại có cuộc trình diễn tại một cái ki-ốt gần Monument aux Morts, Đài Tưởng niệm các liệt sĩ (tất nhiên là liệt sĩ Tây) bên bờ sông Hương. Bác tôi thường dẫn tôi ra xem. Tôi rất tự hào vì bác tôi phụ trách cái kèn đồng to nhất, to đến nỗi phải tròng qua người, cái loa kèn lớn hơn cái thúng. Ông ngồi ở một góc, chăm chú theo dõi, lâu lắm ông nhạc trưởng Quản Liên đưa que chỉ huy chỉ vào là ông thổi lên một tiếng “ồ…” rất trầm, rồi thôi, lại ngồi chăm chú chờ, suốt buổi chỉ “ồ...” đâu có hai hay ba lần...

Bên dòng Trường Giang. Ảnh TL

Năm 1975, giải phóng Sài Gòn, tôi vào ở nhà 190 Công Lý, một hôm bỗng có một người ăn mặc toàn âu phục trắng, đi giày trắng, để râu mép, tự tay lái xe đến tìm tôi, và tự giới thiệu là “Út Trà Ôn”. Tôi vô cùng ngạc nhiên, từng nghe tên Út Trà Ôn là nghệ sĩ cải lương lừng danh, nhưng có quen biết bao giờ đâu. Trò chuyện hồi lâu mới rõ hóa ra ông là chồng của chị Sâm, con gái bác Ba của tôi. Tôi không nhớ bác Ba làm nghề gì, chỉ thấy ông đi Nam về Bắc rất nhiều, thỉnh thoảng ghé qua nhà tôi ở Hội An. Ông cao lớn, lần nào cũng đội một cái mũ cát thuộc địa trắng rộng vành. Đâu khoảng trước Cách mạng tháng Tám ít lâu, nhà bác xảy ra một việc làm rúng động cả đại gia đình chúng tôi: chị Sâm con gái ông bỏ nhà “đi rong”.

Ngày ấy người ta gọi con gái bỏ nhà biệt tích theo trai là “đi rong”, và nhà có con gái đi rong thì nhục lắm. Bác Ba tôi suy sụp hẳn sau vụ đó... Rồi cách mạng, chiến tranh, chia cắt đất nước... Chuyện cũng phai dần. Bác Ba tôi mất đã lâu. Nếu thỉnh thoảng trong gia đình có ai tình cờ nhắc đến chị Sâm thì cũng coi như một người con gái đã mất tích. Có lẽ tôi là người đầu tiên biết được sự thật về người chị ấy, qua câu chuyện của ông Út Trà Ôn. Chị Sâm bỏ nhà ra đi chỉ vì mê cải lương. Trong gia đình tôi hình như mỗi người đều có ít nhiều cái máu si mê đó, đôi khi đến liều lĩnh. Chị lang bạt theo các đoàn cải lương Sài Gòn, hình như cũng có hát đôi chút, rồi sau chuyên làm công việc quản lý, là tay hòm chìa khóa của đoàn. Chị lấy ông Út Trà Ôn khi đoàn đang ở Hồng Kông, không biết là vợ thứ mấy của ông. Những ngày mới giải phóng, có được một người “họ hàng” là sĩ quan Việt cộng là một chỗ dựa quan trọng lắm. Không hiểu làm sao mà ông Út Trà Ôn biết được tôi đang có mặt ở Sài Gòn, tìm được đến đúng 190 Công Lý. Ông lái xe đưa tôi về nhà ở quận 5. Chị Sâm ôm lấy tôi mà khóc.

Người con gái đi rong mấy mươi năm trước nay đã là một người đàn bà tóc bạc, phúc hậu, thật lạ, vẫn chân chất qua bao nhiêu trôi nổi của cái nghề sân khấu lòe loẹt mà bạc bẽo, tôi biết chứ. Và vẫn còn phảng phất nét đẹp xưa, tôi nhớ, ngày trước, mỗi lần chị ghé qua nhà tôi, cả nhà cứ như sáng lên. Và tôi, thằng bé con phố Hội, tôi “yêu” chị bằng một tình yêu trẻ con rất khó hiểu... vẫn còn vương vấn trong tôi cho đến tận bây giờ. Cũng có thể là do tôi tưởng tượng ra vậy thôi, tôi “yêu” chị là sau khi chị đã bỏ nhà đi rong, người con gái “hư” làm khổ, làm nhục cả nhà ấy lại có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với đứa trẻ mới lớn lên là tôi ngày đó, đầy khao khát, mơ hồ...

Tôi còn có một người chú, tên là chú Du, làm nghề in, đã từng lo việc in báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng ở Huế trước năm 1945. Ngày giải phóng Đà Nẵng tôi gặp lại ông, đã trở thành một chủ nhà in lớn. Ông bị sạt nghiệp trong đợt gọi là “cải tạo tư sản” của ta sau năm 1975...

Tất cả những con người đó, ông bác có cô con gái đi rong, ông bác thổi cây kèn to nhất, trầm nhất của đội nhạc Tòa Khâm, ông chú chủ nhà in sạt nghiệp, chị Sâm nghệ sĩ dở dang tôi từng yêu thầm vụng dại... tất cả đã đều không còn. Họ là một mảng khác của bức tranh xã hội một thời, khác và đối lập với mảng tranh bên họ ngoại tôi. Chắc cũng để lại trong tôi, đâu đó tận đáy tiềm thức, một phần những gì làm nên số phận tôi, con đường tôi đi trong cuộc đời này... Có thể là cái thói lang bạt chăng?...

Nguyên Ngọc

 

(Bài viết đăng trên Tạp chí Người Đô Thị số 48, phát hành ngày 29.4) 

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.