Từ thảm họa cá chết miền Trung: Nồng độ xả thải cho phép ra biển cao hơn quy chuẩn nước biển

 21:17 | Thứ tư, 18/05/2016  0

» Từ cá chết Vũng Áng đến Formosa: Nhìn lại quy hoạch môi trường

» Trợ giúp pháp lý và thu thập chứng cứ cho ngư dân do cá chết

» Họp kín chiều 27.4: Quan ngại khả năng gây ô nhiễm môi trường từ KCN Vũng Áng và Formosa

» Thảm họa cá chết miền Trung: Nguồn độc có khả năng lan xuống tận Phú Quốc

» Từ bài học vụ Vedan: Có thể tìm ra thủ phạm gây cá chết ở Vũng Áng

» Từ thảm họa cá chết: Còn gì ở rạn san hô miền Trung?

Sau hơn một tuần Người Đô Thị trao đổi thông tin với GS Trần Tam, qua các tài liệu mà chúng tôi đã có được và qua các phân tích khoa học, Người Đô Thị xin giới thiệu với bạn đọc bài trao đổi dưới đây với GS. Trần Tam, nhằm cung cấp thêm thông tin cho bạn đọc trong vấn đề tìm nguyên nhân thảm họa cá chết tại 5 tỉnh miền Trung vừa qua, mà đến nay vẫn chưa có công bố kết quả chính thức rõ ràng nào.   

GS. Trần Tam có hơn 35 năm làm việc trong ngành chế biến kim loại (Li, Mg, Mn, v.v) và xử lý tài nguyên khoáng sản và từ chất thải công nghệ tại công ty BHP (1980-1987), giáo sư Đại Học New South Wales, Úc (làm việc từ năm 1987-2008), và từ 2009 đến nay là giáo sư khoa Kỹ thuật năng lượng và Tài nguyên, Đại học Quốc gia Chonnam, Hàn Quốc. Ông hiện cũng đang là Giám Đốc Kỹ Thuật công ty Ecomag (www.ecomagnesium.com), triển khai dự án thu hồi magnesium (Mg) từ nước thải sau khi sản xuất muối biển tại Tây Úc (WA, Australia).

        GS Trần Tam

Thưa, mới đây nhất, Bộ Khoa học và công nghệ vừa có trả lời báo chí vào ngày 14.5 về nguyên nhân cá chết. Với thực tế người dân hiện nay đang rất mong cơ quan chức năng chỉ ra được nguyên nhân cá chết, để có thể quay trở lại công việc đánh bắt mưu sinh cũng như tiêu thụ cá, vậy theo ông, kết quả công bố như vậy có đủ sức thuyết phục không? Tại sao?

Theo như trả lời của Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc cho báo chí ngày 14.5 vừa qua, chúng ta có thể nhận thấy ông đưa ra hai nhóm nguyên nhân chính đối với hiện tượng cá chết hàng loạt là “độc tố hóa học và tảo độc”. Tuy nhiên, tác động cụ thể của hai tác nhân này vẫn chưa được đề cập và chúng ta vẫn phải đợi kết luận cuối cùng của các cơ quan chức năng.

Như chúng ta đều biết, người dân hiện tại rất e dè, thậm chí một số người có ý định tẩy chay không ăn cá một khi nguyên nhân cá chết chưa được làm sáng tỏ. Vì thế, kết quả công bố như vậy vẫn chưa thực sự thuyết phục được người dân. Những câu hỏi quan trọng như: Nguồn độc nào (cụ thể) đã làm cá chết? Độc tố bắt nguồn từ đâu? Hiện tại trong nước biển còn độc tố không? Trong tương lai liệu có còn tiếp diễn hiện tượng cá chết không?... cần được giải đáp.

Theo tôi, các cơ quan Chính phủ cần giải đáp những thắc mắc này, để người dân có thể an tâm quay trở lại tiêu thụ cá như trước đây.

Và cũng cần nhấn mạnh, đây là vấn đề chung nên các dữ liệu khoa học như kết quả phân tích mẫu, thông tin về các hóa chất đang xử dụng trong các nhà máy quanh vùng Vũng Áng cần được công bố để các chuyên gia liên ngành có thể cho ý kiến.

Ông có nhận định gì về danh sách các loại hóa chất (mà báo Tuổi Trẻ đã công bố) được sử dụng ở Formosa?

Theo danh sách hóa chất được công ty Formosa nhập khẩu trong vài tháng vừa qua do Tuổi Trẻ công bố, chúng ta thấy đa phần chúng là các loại hóa chất chống gỉ, chất kháng khuẩn, chống ăn mòn, amin trung hòa,...

Các hóa chất chống gỉ thường là amine (N hữu cơ) như trong danh sách trên của Tuổi Trẻ, photphat (kẽm hoặc kiềm Na), photphat hữu cơ... Chất kháng khuẩn thường là khí clo (Cl2) hay H2O2. Nếu nhà máy phải xử lý chromate (Cr6+) thì phải cần các chất khử như NaNO2, FeSO4... Đây là các hóa chất thông thường, có thể được sử dụng trong ngành công nghiệp luyện kim.

Nếu công nghệ xử lý đúng chuẩn như các nhà máy khác thì việc xả nước thải ra biển không có gì mới. Trên thế giới các nhà máy thép như POSCO (Hàn Quốc) đang thải ra ở 4 điểm trên biển gần Pohang, và Bluescope Steel ở Úc đang tái sử dụng nước thải, và qua công ty cấp nước Sydney Water, họ đã dùng công nghệ cao (thẩm thấu ngược và vi màn lọc) để lọc các chất gây ô nhiễm còn sót lại sau khâu xử lý ở nhà máy.

Cần phải có các phân tích rõ ràng, cụ thể về thành phần nước xả thải từ Formosa cũng như các nhà máy khác trong khu vực Vũng Áng, và nhất là kiểm tra cụ thể các hóa chất này, bao nhiêu đã được dùng và phương pháp xử lý trước khi thải.

Thưa ông, hiện tượng El Nino khốc liệt thời gian vừa qua có thể được xem là một chi tiết cần lưu ý trong việc xét đến nguyên nhân cá chết ở 5 tỉnh miền Trung không? Tại sao, và như thế nào?

Hiện tượng El Nino cũng cần được xem xét và phân tích mối liên quan (nếu có) đến hiện tượng cá chết hàng loạt ở miền Trung. Trong khoảng 4 tháng đầu năm 2016, nhiệt độ trung bình của nước biển công bố bởi NASA tăng khoảng 1,2 oC [1] . Nước biển nóng dần cũng dẫn đến nồng độ oxy càng ngày càng thấp, nhưng đây chỉ là yếu tố phụ vì nếu nhiệt độ tăng 2 - 3oC chỉ dẫn đến nồng độ oxy trong nước biển giảm từ 5-7 ppm (ppm: parts per million – là nồng độ oxy lúc bình thường trong nước ở 25oC) xuống 4-5 ppm là nhiều.

Có nguồn tin cho rằng cá chết hàng loạt là do hiện tượng El Nino. Năm ngoái, tại Chile hơn 300 cá voi/cá ông (whale) chết và dạt vào bờ biển nước này. Vài tháng gần đây, cá hồi (salmon) và cá mồi (sardine) chết hàng nghìn tấn ở đấy [2]. Các chuyên gia Chile cho rằng hiện tượng có thể do nước biển nóng dần vì El Nino cộng với hàm lượng cao chất dinh dưỡng (nitrat, photphat) thải ra biển, tạo điều kiện thích hợp cho “thủy triều đỏ” và các tảo độc khác nở hoa. Thủy triều đỏ trên diện rộng cũng sẽ làm mất oxy trong nước do tảo chết sẽ có phản ứng oxy hóa. Đây là nguyên nhân có thể làm cá chết hàng loạt do thiếu oxy.

Như vậy, hàm lượng cao chất dinh dưỡng (nitrat, photphat) thải ra từ các nhà máy gần biển (nếu có), hay từ các hoạt động nông nghiệp dùng phân bón NPK (riêng photphat cũng có thể từ bột giặt dùng quy trình sản xuất cũ) sẽ là một trong những tác nhân, cộng với nhiệt độ nước biển cao trong mùa hè hoặc các thay đổi khác như độ pH, độ mặn của nước biển, sẽ gây ra thủy triều đỏ làm cá chết hàng loạt.

 formosa

Đường ống xả thải ra biển của Formosa - ảnh: TL

Từ bản báo cáo của bộ Tài nguyên môi trường gửi Chính phủ vào cuối tháng 4.2016 trong thảm họa cá chết, ông phân tích, nhận định như thế nào về nguyên nhân gây ra cá chết?

Theo như nhận định của Thứ trưởng Phạm Công Tạc về 2 nguyên nhân gây ra hiện tượng là độc tố hóa học và tảo độc khiến cá chết hàng loạt, trước nhất tôi đưa ra một vài phân tích như sau:

Các độc tố trong nước biển thường từ hai nguồn:

- Độc tố hóa học: bao gồm vô cơ (kim loại nặng như Cd, Cr, Cu, Zn, Hg, Cr,...) và hữu cơ (ví dụ: DDT ­(dichloro-diphenyl-trichloroethane)).Cadmi, thủy ngân rất độc cho cá trong khi các hợp chất của nitơ và photpho (các chất có gốc NH4+, NO2-, PO43-, ...) không có độc tính cao trực tiếp với cá. Nhưng nếu nước biển chứa hàm lượng cao các chất này thì chúng sẽ là tác nhân giúp tảo phát triển, nở hoa và từ đó làm giảm oxy trong nước.

- Độc tố sinh học: tảo nở hoa.

Các kim loại nặng (KLN) với nồng độ cao trong nước có thể làm chết cá và các thủy/hải sản khác. Do đó, các nước trên thế giới thường đặt quy chuẩn rất khắc khe cho KLN kể cả Việt Nam.

Tùy theo nồng độ không đồng nhất của các KLN khác nhau sẽ làm cá chết (thay đổi tùy loại cá, tùy độ lớn của cá, v.v.). Ví dụ một nghiên cứu của viện Môi Trường và Tài Nguyên Biển năm 2005 cho thấy cá giò/cá bớp biển (Cobia) 40 ngày tuổi có LC50 (nồng độ gây tử vong 50% số cá) sau 96 giờ là 0,24 ppm (mg/L) Cu (đồng) và 0,8 ppm Zn (kẽm) [3]. Đây là loại cá Việt Nam xuất khẩu hơn 1500 tấn năm 2008. Trong khi đó, hào (oyster) có thể hấp thu 2000 mg Zn/kg hào (như trong vùng Savanah (Mỹ)), nhưng chất vô cơ này lại có lợi cho con người [4].

Theo số liệu phân tích chất lượng nước biển ven bờ trong Báo cáo của bộ Tài nguyên Môi trường gửi Chính phủ vào cuối tháng 4.2016, chúng ta có thể thấy một số chỉ tiêu đã vượt ngưỡng QCVN 10-MT:2015/BTNMT như: N-NH4+ (vượt ngưỡng 1,1 đến 1,5 lần), Fe (vượt 1,04 đến 1,28 lần), tổng Cr (vượt 1,2 lần). Ngoài ra, tổng N và P cũng vượt ngưỡng 1,1 đến 4,56 lần tùy địa điểm.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của các thông số vượt ngưỡng này đến việc cá chết hàng loạt cần có thêm các phân tích cụ thể từ các cơ quan chuyên môn mới có thể đưa ra được kết luận chính xác. Từ lúc bắt đầu nhận diện cá chết tấp ven bờ biển hôm 4.4 (có thể đã chết lâu trước đó), cho đến khi bắt đầu kiểm tra mẫu nước, các nồng độ trên đã bị thay đổi nhiều vì dòng hải lưu.

Cá chết cũng có thể do nhiều loại tảo như hình dưới đây. Độc tố cực hại cho cá do tảo gây thủy triều đỏ cũng làm cá chết hàng loạt, ngoài việc khi nở hoa gây thiếu oxy trầm trọng.

formosa

Khu vực cá chết hàng loạt thời gian qua. Ảnh: TL

Thưa ông, quy chuẩn chất thải từ nhà máy thép của Việt Nam so với quy chuẩn nước biển Việt Nam như thế nào?

Khi so sánh quy chuẩn nước biển Việt Nam (QCVN 10-MT:2015/BTNMT ) [5] với quy chuẩn nước thải cho phép từ nhà máy thép (QCVN 52:2013/BTNMT ) [6] (Bảng 1), nên lưu ý vài sự khác biệt sau:

- Giá trị giới hạn các kim loại nặng cho phép trong vùng ven bờ gần đất liền thường thấp hơn vùng xa bờ,

- Các nồng độ giới hạn này của nước biển thấp hơn nhiều so với nồng độ được phép xả từ nhà máy thép (Cmax),

- Có nhiều kim loại độc hại cho thủy sản như chì (Pb), đồng (Cu), asen (As) không có trong danh sách giới hạn xả,

- Các chất gây tảo nở hoa (P và NO2, NO3) không có trong danh sách giới hạn xả.

Đây là những điểm nên cần chỉnh đổi để phù hợp với quy chuẩn nước biển Việt Nam hiện nay.

Nhìn xa hơn nữa, các nồng độ chất độc hại cho phép xả thường rất cao so với quy chuẩn nước biển, gấp 10-20 lần (bảng 1). Điều này cho thấy nếu xả ra biển dòng hải lưu phải có một lưu lượng lớn gấp 10-20 lần lưu lượng xả mới có thể làm loãng và phân tán các chất gây ô nhiễm trong danh sách. Thông thường trong lúc nghiên cứu tác động môi trường, các lưu lượng này phải được đo và đánh giá gần điểm xả thải cho phù hợp với quy chuẩn nước biển.

Vì ở Việt Nam, nồng độ chất độc hại cho phép thải ra biển cao hơn nhiều so với nguồn được thải vào (như đã phân tích trên), nên việc mô hình hóa dòng hải lưu (Flow modelling) để xem các chất gây ô nhiễm phân tán thế nào khi xả thải cũng phải được nghiên cứu kỹ lưỡng và thuyết minh rõ trong đánh giá tác động môi trường. Nếu không hậu quả sẽ nghiêm trọng và lâu dài.

Bảng 1: So sánh quy chuẩn nước biển Việt Nam (QCVN 10-MT:2015/BTNMT) [5] với nồng độ cho phép thải (Cmax = C x Kq x Kf) tính từ thông số C (QCVN 52: 2013) cho các dự án sau 2013 [6] với Kq = 1 cho nguồn tiếp nhận có lưu lượng 50-200 m3/s và Kf = 0,9 cho lưu lượng nguồn thải > 5.000 m3/24 h).

Thông Số

Đơn vị

QCVN

10-MT:2015/BTNMT  -

Giá Trị Giới Hạn

Giá trị thông số C

Nồng độ cho phép Cmax

 

 

Vùng 1

Vùng 2

Vùng 3

 

 

Oxy hòa tan (DO)

mg/L

≥5

≥4

-

 -

Tổng chất rắn lơ lửng (TSS)

mg/L

50

50

-

100

90

Amoni (NH4+ tính theo N)

mg/L

0,1

0,5

0,5

-

-

Tổng nitơ (N)

mg/L

 -

60

54

Phosphat (PO43- tính theo P)

mg/L

0,2

0,3

0,5

-

-

Florua (F-)

mg/L

1,5

1,5

1,5

-

-

Xyanua (CN-)

mg/L

0,01

0,01

0,01

0,5

0,45

Asen (As)

mg/L

0,02

0,04

0,05

-

-

Cadimi (Cd)

mg/L

0,005

0,005

0,01

0,1

0,09

Chì (Pb)

mg/L

0,05

0,05

0,1

-

-

Crom VI (Cr6+)

mg/L

0,02

0,05

0,05

0,5

0,45

Tổng Crom

mg/L

0,1

0,2

0,5

-

-

Đồng (Cu)

mg/L

0,2

0,5

1

-

-

Kẽm (Zn)

mg/L

0,5

1

2

-

-

Mangan (Mn)

mg/L

0,5

0,5

0,5

-

-

Sắt (Fe)

mg/L

0,5

0,5

0,5

-

-

Thủy ngân (Hg)

mg/L

0,001

0,002

0,005

0,01

0,009

Tổng Phenol

mg/L

0,03

0,03

0,03

0,5

0,45

Tổng dầu mỡ khoáng

mg/L

0,5

0,5

0,5

10

9

Vùng 1: Vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh

Vùng 2: Vùng bãi tắm, thể thao dưới nước

Vùng 3: Các nơi khác

Theo bảng trên, lưu lượng nguồn tiếp nhận (sông, suối, khe, rạch, v.v) cho hệ số Kq = 1 với dòng nước khá nhanh. Nếu chậm hơn 50 m3/s, Kq = 0,9 và nếu lưu lượng nhanh trong khoảng 200-500 m3/s, hệ số Kq sẽ là 1,1. Trong các khoảng này, nồng độ cho phép thải sẽ không khác nhau (cách biệt +/- 10%) lắm so với thông số C .

Danh sách các chất có thể gây ô nhiễm trên (Bảng 1) không đầy đủ (ví dụ thiếu đồng , chì, kẽm, tổng phosphate, v.v) khi so với quy chuẩn đề nghị bởi World Bank-International Finance Corporation có hiệu lực sau 30/4/2007 [7] theo như bảng 2 sau đây:

Bảng 2: So sánh quy chuẩn từ World Bank-IFC từ 30/04/2007 [7] và trước 2007 với thông số C từ QCVN-52:2013/BTNMT cho nước thải xả vào nguồn nước không dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt.

(1 ppm = 1 mg/L = 1000 ppb = 1000 microgram/L)

Thông số

Đơn vị

WB-IFC

1998-2007

WB-IFC từ

30/4/2007

QCVN-52:2013/ BTNMT (thông số C)

pH

 

6 - 9

6 - 9

5,5 - 9

Chất rắn lơ lửng (TSS)

mg/L

50

35

100

Tổng dầu mỡ khoáng

mg/L

10

10

10

Nhiệt độ

oC

   

40

COD

mg/L

250

250

150

BOD5 (20oC)

mg/L

-

-

50

Phenol

mg/L

0,5

0,5

0,5

Cadimi (Cd)

mg/L

0,1

0,01

0,1

Crom (tổng)

mg/L

0,5

0,5

-

Crom (VI)

mg/L

-

0,1

0,5

Đồng (Cu)

mg/L

-

0,5

-

Chì (Pb)

mg/L

0,2

0,2

-

Thiếc (Sn)

mg/L

-

2

-

Thủy ngân (Hg)

mg/L

0,01

0,01

0,01

Niken (Ni)

mg/L

-

0,5

-

Kẽm (Zn)

mg/L

2

2

-

Xianua (CN-)

mg/L

0,1

0,1

-

Xianua (Tổng)

mg/L

1

0,5

0,5

Tổng nitơ (N)

mg/L (as N)

-

30

60

Ammonia

mg/L

-

5

-

Tổng PO4

mg/L

-

2

-

Flouride

mg/L (as F)

-

5

-

Sulphide

mg/L

-

0,1

-

Sắt

mg/L

-

5

-

PAH

mg/L

-

0,05

-

 formosa

Nhận định của ông như thế nào về công nghệ sản xuất thép của Formosa ở Việt Nam khi so sánh với công nghệ sản xuất thép trên thế giới hiện nay?

Chúng tôi không trả lời câu này được vì không có thông tin kỹ thuật (process flow diagram).

Tuy nhiên, tôi xin nhấn mạnh: Nhà máy gang thép liên hợp sẽ thải rất nhiều chất ô nhiễm qua dạng khí, nước thải và chất  rắn. Khí thải chứa oxit kim loại nặng, NOx, SOx, COx, bụi hạt, v.v. Nếu không được xử lý hiệu quả, các khí thải SOx (cảm nhận từ mùi hăng trong không khí gần nhà máy) và NOx (có màu nâu cam) sẽ tạo ra “mưa axit” khi tác dụng với hơi nước trong không khí.

Nếu không xử lý đúng và thải ra môi trường ở số lượng và nồng độ cao khí SOx và NOx sẽ tạo “mưa axit” và có thể làm chết cây cỏ vùng chung quanh. Cây cối ở khu Rừng Đen (Black Forrest) ở Đức chết hơn 30% vì mưa axit trong khoảng thời gian 3 thập niên 60-90’ vì lúc đó công nghệ Đức xả nhiều SOx/NOx và ít bị kiểm soát. F (khí flo) trong khí thải cũng gây độc hại nếu thải ra không khí. Các nhà máy luyện nhôm kim loại ở Úc phải chịu sự kiểm soát ngặt từ EPA (Environment Protection Authority) qua việc thải khí F ra môi trường.

Nước thải từ nhà máy gang thép liên hợp cũng chứa nhiều chất gây ô nhiễm như kim loại nặng, NO2/NO3, photphat, v.v. Các hợp chất chứa N và P sẽ giúp gây tảo độc hại diệt sinh vật biển và thủy thảo.

Quy trình xử lý các chất thải này rất phức tạp và cần kinh nghiệm chuyên ngành chế biến chất thải (waste processing),

Quy trình thải cần quan trắc chặt chẽ để tránh các bất cập khi xử lý chất thải và để theo đúng quy chuẩn đặt ra cho nguồn nhận chất thải (không khí hoặc nguồn nước: biển, sông, rạch, v.v),

Quy trình xả (gồm lưu lượng xả và cách thức xả) phải được chuyên gia trong ngành thủy động học, địa thủy văn (hydrogeology, ocean hydrodynamics),v.v đánh giá và kiểm nghiệm qua mô hình để các chất ô nhiễm được phát tán nhanh chóng và dưới nồng độ giới hạn.

Thưa ông, sẽ có những nguy cơ gì nếu xây dựng các nhà máy thép, cũng như nhiệt điện, công nghiệp nặng dọc bờ biển?

Tất cả các nhà máy thép, nhiệt điện, công nghiệp nặng đều thải ra một lượng lớn các chất thải ở các dạng rắn, lỏng, khí khác nhau. Các khí thải SOx, NOx, COx, nước thải chứa kim loại nặng, chất thải hữu cơ, N, P… đều có tác động xấu đến môi trường nếu không được xử lý đến hàm lượng cho phép trước khi xả thải.

Việc đặt các nhà máy dọc bờ biển ngoài những lợi ích về vận chuyển hàng hóa, tận dụng nguồn nước biển,… thì vấn đề lợi dụng biển như một nguồn chứa chất thải cần phải được đặc biệt quan tâm. Trong một số trường hợp, dòng hải lưu ven bờ sẽ là tác nhân quan trọng đưa nguồn ô nhiễm lan ra các khu vực khác.

Hiện tại, một số nhà khoa học trong và ngoài nước đang có giả thuyết xem dòng hải lưu ven bờ các tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh đến Đà Nẵng có thể là tác nhân vận chuyển các chất độc (nếu có) từ Vũng Áng về phía nam. Tuy nhiên, vì thiếu các thông tin kỹ thuật cần thiết như lưu lượng dòng hải lưu, nồng độ các chất ô nhiễm, v.v... đo ngay từ những ngày đầu tháng 4, tất cả các kết luận không có cơ sở khoa học đều là giả thuyết.   

Tóm lại, nguy cơ ô nhiễm không khí, ô nhiễm vùng biển tác động xấu đến đời sống, kinh tế của người dân từ các nhà máy dọc bờ biển là không thể tránh khỏi, nếu không có biện pháp chuẩn xử lý các chất thải từ các nhà máy này.

Lê Quỳnh (thực hiện)

 --------

Tài liệu tham khảo:

[1]       http://www.theguardian.com/environment/2016/may/16/april-third-month-in-row-to-break-global-temperature-records

[2]       https://weather.com/science/environment/news/chile-el-nino-red-tide-fish-whale-deaths-toxic-algae-pacific-ocean

[3]: Le Quang Dung, Nguyen Manh Cuong, Nguyen Thanh Huyen and Nguyen Duc Cu, 2005. Acute toxicity test to determine the effect of copper, zinc and cyanide on Cobia (Rachycentron Canadum), Australasian J. of Ecotoxicology, 11, 163-166.

[4]: Kumar, K.M., Sajwan, K.S., Richardson, J.P., Kannan, K., 2008. Contamination profiles of heavy metals, organochlorine pesticides, polycyclic aromatic hydrocarbons and alkylphenols in sediment and oyster collected from marsh/estuarine Savannah GA, USA, Marine Pollution Bulletin, 56, 136–162.

[5]: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước biển:QCVN 10-MT:2015/BTNMT - http://www.iph.org.vn/attachments/article/1010/QCVN%2010.2015_Nuoc%20bien.pdf

[6]:Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất thép (QCVN 52: 2013/BTNMT) - https://www.env.go.jp/air/tech/ine/asia/vietnam/files/law/QCVN%2005-2013.pdf

 [7]: World Bank-International Finance Corporation (IFC), 2007.  Environmental, Health and Safety Guidelines -  Integrated Steel Mills (from 30 April 2007) -
http://www.ifc.org/wps/wcm/connect/0b9c2500488558848064d26a6515bb18/Final%2B-%2BIntegrated%2BSteel%2BMills.pdf?MOD=AJPERES&id=1323161945237

 

» Đề nghị làm rõ “cá chết xếp lớp dưới đáy biển”

» Phát hiện cá chết xếp lớp dưới đáy biển ở Quảng Bình

» Formosa nhập gần 400 tấn hóa chất trong hai năm

» Cá chết, truyền thông và niềm tin

» Từ cá chết Vũng Áng đến Formosa: Nhìn lại quy hoạch môi trường

» Trợ giúp pháp lý và thu thập chứng cứ cho ngư dân do cá chết

» Họp kín chiều 27.4: Quan ngại khả năng gây ô nhiễm môi trường từ KCN Vũng Áng và Formosa

» Thảm họa cá chết miền Trung: Nguồn độc có khả năng lan xuống tận Phú Quốc

» Từ bài học vụ Vedan: Có thể tìm ra thủ phạm gây cá chết ở Vũng Áng

» Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhận khuyết điểm vụ cá chết hàng loạt

» Nói thủy triều đỏ gây cá chết là thiếu căn cứ khoa học

» Họp báo 8 phút: Chưa có bằng chứng Formosa làm chết cá

» Nếu làm đúng quy trình xả thải, Formosa phải mất 2-3 tỷ USD

 » Hà Tĩnh cấp phép đầu tư 70 năm cho Formosa khi chưa được Chính phủ đồng ý

» Trợ giúp pháp lý và thu thập chứng cứ cho ngư dân do cá chết

» Theo chân thợ lặn tìm kiếm hải sản chết dưới đáy biển

» Từ thảm họa cá chết: Còn gì ở rạn san hô miền Trung?

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.