Cho dù có thể nhiều người chưa được đọc tác phẩm, nhưng sự kiện tiểu thuyết The Sympathizer (tạm dịch: Cảm tình viên) của Viet Thanh Nguyen (tên Việt Nam là Nguyễn Thanh Việt) đoạt giải Pulitzer 2016 gieo vào cộng đồng người Việt đang sống trong nước và nhiều nơi trên thế giới một gợi nhắc, rằng cuộc chiến đã qua 40 năm nhưng những vấn đề của nó vẫn còn đó. Bi kịch của mất mát máu xương, ly tán đã được nói đến nhiều, có lẽ đã đến lúc phải nói về bi kịch của sự vong thân của con người trong và sau cuộc chiến?
Nhưng Viet Thanh Nguyen, với The Sympathizer không được nhắc đến nhiều và xứng đáng trong truyền thông về giải thưởng ở báo chí chính thống trong nước, dù trước đó, khi cuốn sách được báo chí quốc tế ca ngợi, thì nhiều người ở Việt Nam đã tìm đọc, trong đó có các dịch giả, giới phê bình. Thậm chí ngay trong chương trình thời sự của kênh VTV1 khi đưa tin về giải Pulitzer 2016, chỉ dừng lại ở kết quả hạng mục báo chí. Sự cố tình lảng tránh đó nói lên rằng, có rất nhiều thực tế mà nền văn học Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung chưa dám đối diện, và vì thế, chưa thể đủ năng lực tự trưởng thành được.
The Sympathizer đã có hợp đồng bản quyền với một Nhà xuất bản ở Việt Nam và đang trong quá trình dịch cuốn tiểu thuyết này
Tuy số lượng nhà văn gốc Việt viết tiếng Anh, Pháp có thể hòa nhập, có vị trí trong văn giới quốc tế không nhiều (có lẽ chỉ dưới 20 cái tên), nhưng dấu ấn giá trị mà họ tạo ra khá đặc biệt. Bằng vốn liếng di dân trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt, những nhà văn di dân (immigrant writers) người Việt đem đến cho văn chương thế giới những tiếng nói của người Việt hậu chiến đầy khắc khoải và nhân văn.
Không phải đợi đến Viet Thanh Nguyen thì vấn đề cuộc chiến Việt Nam mới được đào sâu trong văn chương thế giới. Trước đó, Monique Truong với hai quyển tiểu thuyết The book of salt và Bitter in mouth đã gây chú ý đặc biệt với một nghệ thuật kể chuyện rất độc đáo, một nội hàm văn bản nhiều uẩn khúc. Tất cả được kể bằng cấu tứ là sự thay đổi những giác quan, đặc biệt là mùi vị. The book of salt, cuốn tiểu thuyết đầu tay của Monique Truong, ngay khi mới ra đời (nhà xuất bản Chatto & Windus in 2003, sau đó nhà Vintage in lại năm 2004) từng là một cuốn sách bán chạy, được giới phê bình quốc tế khen ngợi bởi sự tinh tế và vẻ đẹp thuần khiết trong dòng chảy văn chương di dân.
Có thể nói, cuộc chiến và những vết thương nó để lại trong cộng đồng người Việt là một mảng đề tài lớn, một vỉa ngầm có trữ lượng bất tận đối với những nhà văn di dân. Điều đó có thể được nhìn trực tiếp bằng những tiểu tự sự của cá nhân, gia đình hay cộng đồng mà có khi được nhìn qua thấu kính của văn hóa. |
Sự khắc khoải, truy vấn về căn tính văn hóa cũng là một trong những điều mà các nhà văn di dân gốc Việt ở thế hệ còn liên hệ với quá khứ (sinh trong thập niên 1960, 1970) quan tâm. Lily Hoang (tức Lily Hoàng Kim Ly) với những thử nghiệm cấu trúc độc đáo trong quyển Changing (có thể hiểu là Dịch trong Kinh Dịch). Quyển sách được bố cục theo 64 chương, ứng với ký hiệu của 64 quẻ Kinh Dịch. Ngôn ngữ đầy chất thơ, pha trộn huyền thoại truyền thống và đan quyện hài hòa với yếu tố hiện đại đã giúp cho Lily Hoang - “nhà văn gốc Việt thế hệ thứ hai” được tôn vinh tại giải PEN Beyond Margins 2009.
Trước đó, năm 2006, Andrew Lam, một nhà văn người Mỹ gốc Việt khác cũng đã từng đoạt giải thưởng này với tác phẩm Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora. Một tiểu sử cá nhân, gia đình và cộng đồng sau cuộc chiến với thế giới khốc liệt trên biển, những trại tị nạn và thân phận của một dân tộc thiểu số trên đất Mỹ.
Có thể nói, cuộc chiến và những vết thương nó để lại trong cộng đồng người Việt là một mảng đề tài lớn, một vỉa ngầm có trữ lượng bất tận đối với những nhà văn di dân. Điều đó có thể được nhìn trực tiếp bằng những tiểu tự sự của cá nhân, gia đình hay cộng đồng mà có khi được nhìn qua thấu kính của văn hóa. Sự mắc kẹt giữa hai nền văn hóa cũng là điều được những nhà văn di dân gốc Việt trải nghiệm và bộc bạch qua trang viết. Ru của Kim Thúy, một nữ văn sĩ Canada gốc Việt là một ví dụ. Vì thế, khi Ru được vinh danh tại giải thưởng Canada Reads lần 14, ông Cameron Bailey, một nhà phê bình phim uy tín đã nhận định: “Đây là một trong hàng triệu câu chuyện về di cư, tị nạn ở Canada. Một bi kịch được thăng hoa trong bút pháp tài tình khiến nó mang vẻ đẹp riêng. Đây cũng là một câu chuyện về tương lai của Canada, một quốc gia của những cư dân bản địa ngàn xưa bao dung kết nối với cư dân khắp thế giới”.
Trực tiếp hơn, vấn đề xung đột giữa hai nền văn hóa của người di dân, câu chuyện khám phá, cọ xát với những vùng văn hóa khác và những hồi ức đau thương của những thuyền nhân Việt Nam cũng được Nam Lê, một nhà văn Úc gốc Việt thể hiện thành công qua tập truyện The boat. The boat có một số truyện ngắn đặc tả câu chuyện thân phận người Việt di dân trên đất Mỹ của Nam Lê từng đoạt giải PEN / Malamud Award for Exellence in the short story 2010, giải Australian Prime Minister’s Literature award 2009 và danh giá nhất, là giải thưởng Dylan Thomas 2008. Cuốn sách đã được dịch qua tiếng Việt (tuy không trọn vẹn lắm) với tựa Con thuyền do Thiên Nga và Thuần Thục dịch, Nhã Nam và Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành 2011.
Nhà văn Nguyễn Thanh Việt. Ảnh Anna Min
Nói đến bi kịch hậu chiến, không thể bỏ qua trường hợp Linda Lê. Một nữ văn sĩ gốc Việt (cha Việt mẹ Pháp), viết tiếng Pháp và được coi là thành công trong nền văn học Pháp đương đại. Linda Lê còn là một cây bút phê bình có uy tín tại Pháp. Hầu hết tác phẩm của bà (Lại chơi với lửa, Vu khống, Thư chết...) mang mối u uẩn day dứt như những cuộc mổ xẻ vết thương hậu chiến, những bi kịch gia đình và sự lưu đày trong ngôn ngữ. Linda Lê từng dành các giải thưởng Fénéon 1997, giải Wepler 2010 và Renaudot 2011. Cho đến nay, bà là nhà văn quốc tế gốc Việt được dịch và giới thiệu khá đầy đủ ở Việt Nam. Bà cũng từng trở về Việt Nam để nói về văn chương và những tác phẩm của mình.
Tiếng nói Việt Nam từ những cộng đồng di dân đã hòa chung vào dòng chảy văn chương thế giới hiện đại, ngoài những trường hợp kể trên, còn có thể nhắc đến Andrew Pham, Lê Thị Diễm Thúy, Kim Nguyễn... Tác phẩm của họ hầu hết ngoài những nỗ lực phục dựng ký ức, giải mã những vết thương thì điều lớn hơn, vẽ lại chân dung tâm hồn của một cộng đồng dâu bể và mất mát bởi cuộc chiến phi nghĩa, bởi sự nhẫn tâm trong hành xử của những người đồng bào với nhau và sự khốn cùng trong những cuộc ra đi, xê dịch trong chiều kích địa lý lẫn văn hóa, sự phê phán trước những thứ chủ nghĩa tàn bạo chà đạp nhân tâm và nô dịch hóa con người.
Viet Thanh Nguyen không phải là một hiện tượng quá mới của văn chương di dân Việt Nam trên toàn cầu. Những ai quan tâm đến văn chương người Việt nói chung không giấu được cảm xúc vui mừng. Nhưng từ những gì đã thấy về một đời sống văn chương và văn hóa tự coi mình là ngoại lệ, thì cũng nên truy vấn: “Liệu (hay đến bao giờ) những nhà tiên tri được tiếp đón xứng đáng trên quê hương của mình?”, theo cách đặt vấn đề “nhạy cảm” của Jesus.
Nguyễn Vĩnh Nguyên