Đô thị đặc thù:

Tài nguyên của đô thị du lịch

 10:36 | Thứ hai, 15/09/2025  0
Đô thị du lịch của Việt Nam có thể đếm trên đầu ngón tay. Sa Pa, Phú Quốc, Hội An, Đà Lạt, Sầm Sơn là những đô thị du lịch rõ nét. Các đô thị du lịch luôn toát lên chất lạ, vẻ đẹp và sự hấp dẫn.

Nếu tính từ cuộc hành hương của người Hy Lạp về đỉnh Olympus, thế kỷ thứ VIII TCN, thì chúng ta đã có 29 thế kỷ hoạt động du lịch. Tính chất, quan niệm và hoạt động du lịch mỗi thời kỳ mỗi khác. 

“Du lịch” theo nghĩa Hán - Việt là đi chơi, lưu trú, chủ yếu đi lại và trải nghiệm, tiếp nạp và hiểu biết thêm về cuộc sống. Du lịch thời hiện đại quan trọng ở chất trải nghiệm và tiếp nạp.

Đô thị là một dạng quần cư của con người, cũng đã có lịch sử hơn 5.000 năm. Con người có hai dạng quần cư chính: nông thôn và đô thị. Đô thị khác nông thôn ở văn minh và tiện ích cuộc sống. Không gian đô thị, cảnh quan đô thị, kiến trúc đô thị, hạ tầng kỹ thuật và thông tin đô thị, trang thiết bị đô thị là cái khung cho văn hóa đô thị hình thành và phát triển. Mỗi đô thị đều có một động năng phát triển chính. Nếu động năng chính ấy là công nghiệp thì đó là đô thị công nghiệp. Nếu động năng chính là du lịch thì đó là đô thị du lịch. Thử hình dung không có du lịch thì Hội An là đô thị gì?

Tài nguyên thì có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng quy tụ là một hay nhiều nguồn cung cấp, từ đó con người tạo ra các lợi ích, tiện ích và giá trị. Tài nguyên của một đô thị du lịch bao gồm các dạng tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên xã hội, chúng ít nhiều đều có sắc thái nhân văn. 

"Thử hình dung không có du lịch thì Hội An là đô thị gì?". Ảnh: Quý Hòa


Bốn tài nguyên quan trọng của đô thị du lịch

Tài nguyên của đô thị du lịch thì có nhiều, trong phạm vi bài viết này chỉ nêu lên một số tài nguyên chính là địa điểm, văn hóa, cảnh quan và môi trường.

Tài nguyên địa điểm: Du lịch là đi để hiểu biết, cao hơn là trải nghiệm và tiếp nạp kinh nghiệm sống. Đi là từ địa điểm này đến địa điểm khác, từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác. Địa điểm của một đô thị như vị trí và hình thái vật lý, vị thế và đặc thù văn hóa của đô thị là một tài nguyên du lịch. Sự khác biệt về khoảng cách, địa cảnh và đặc thù văn hóa làm nên tài nguyên du lịch. Đô thị biển, đô thị núi, đô thị ven sông hay đô thị cao nguyên rất khác nhau về hình thái vật lý. Đô thị biển có bãi cát, bãi tắm và sự khoáng đạt của biển cả. Đô thị núi có cái điệp trùng của núi non, thung lũng, rừng cây và đèo dốc. Đô thị ven sông thì đậm chất nhân văn của hình ảnh trên bến dưới thuyền, cao ốc và bến cảng... 

Phần lớn những nhà tổ chức, nhà hoạch định chiến lược du lịch, nhà quy hoạch đô thị thường chỉ coi địa điểm như một thực thể tự nó mà không coi nó như một hành trình. Tài nguyên du lịch của địa điểm không chỉ ở các giá trị tại chỗ mà còn ở các giá trị trên hành trình di chuyển. Chuỗi hình ảnh thị giác và cảm xúc trên hành trình là chuỗi giá trị trải nghiệm, là tài nguyên du lịch của địa điểm.

Nhà thờ đá Sa Pa là địa điểm thu hút đông đảo khách du lịch khi đến Sa Pa. Ảnh: Trung Dũng


Địa điểm còn có linh hồn hay còn gọi là tinh thần của địa điểm - genius loci - cái thực sự là một tài nguyên du lịch đã sớm được khai thác. Làm rõ sự khác biệt của từng địa điểm, sự khác biệt của mỗi đô thị du lịch về vị thế của nó trong ngân hà địa điểm du lịch, nhất là vị thế văn hóa của địa điểm cũng là một dạng tài nguyên du lịch. Không dễ để làm điều này nhưng là điều cần thiết trong tổ chức, hoạch định chiến lược và quy hoạch du lịch. Địa điểm là khâu đầu trong tổ chức, hoạch định chiến lược và quy hoạch du lịch nên cần được coi là tài nguyên du lịch chứ không chỉ là tên gọi.

Tài nguyên văn hóa: Tài nguyên văn hóa của đô thị du lịch được biểu hiện rõ ở đặc thù, trải nghiệm, không gian, hình tượng và truyền thống văn hóa - những đặc trưng của kiến thức văn hóa du lịch. Tài nguyên văn hóa của đô thị du lịch phần lớn là phi vật thể. Một con phố, một quảng trường, một công trình cổ khi trở thành tài nguyên văn hóa của đô thị du lịch đều phải trải qua quá trình phi vật thể hóa để trở thành hình tượng, biểu trưng hay một dấu ấn cảnh quan đô thị, đó là những thành tố của tài nguyên văn hóa. Một lễ hội truyền thống, một làn điệu dân ca, một pho truyện cổ tích, một cỗ bàn ẩm thực hay những công trình kiến trúc đô thị cần được chuyển qua bộ lọc thị giác, thính giác, vị giác và tri giác để trở thành tài nguyên văn hóa đô thị cụ thể. 

Du khách tham quan, mua sắm các sản phẩm du lịch đặc trưng từ văn hóa bản địa tại Sa Pa. Ảnh: Trung Dũng


Không có những tài nguyên văn hóa cụ thể đó thì khó có thể tổ chức, hoạch định chiến lược du lịch hay quy hoạch du lịch một cách hiệu quả, nhất là đối với các nhà quy hoạch đô thị du lịch. Việt Nam đã có nhiều sản phẩm văn hóa du lịch đô thị như Trang vàng du lịch Việt Nam, các biên khảo văn hóa địa phương… nhưng chưa biến chúng thành tài nguyên văn hóa du lịch được. Sự khác nhau giữa sản phẩm văn hóa và tài nguyên văn hóa là ở khả năng khai thác. Tài nguyên luôn đi liền với khai thác. Khả năng khai thác là nguyên liệu chính trong công tác tổ chức, hoạch định chiến lược du lịch và quy hoạch đô thị du lịch.

Tài nguyên cảnh quan: Cảnh quan là một dạng tài nguyên dễ nhận thấy của đô thị du lịch. Cảnh quan cho ta tiếp cận thị giác và tiếp cận trải nghiệm. Tiếp cận thị giác là hành trình và sự di chuyển; tiếp cận trải nghiệm là sự lưu trú và cảm nhận. Vẻ đẹp lặng lờ của sông Hương, cảm nhận chất thâm trầm cổ kính của kinh thành Huế, cái lạ của các phiên chợ miền núi Tây Bắc... là những tài nguyên cảnh quan du lịch. Tài nguyên cảnh quan của đô thị du lịch có biên thị hẹp hơn. Đó có thể là cảnh quan đô thị, có thể là cảnh quan sinh thái đô thị, cảnh quan phong cảnh hay cảnh quan thiên nhiên đô thị.

Đèo Prenn - Đà Lạt. Ảnh: Nguyễn Minh Tú


Cảnh quan đô thị - Urban landscape - là cảnh quan nhân văn, do con người tạo lập. Những con phố quanh co, những quảng trường lưu đọng sự kiện lịch sử, những mái ngói nhấp nhô hay những cao ốc để lại trên đường chân trời các điểm nhấn… là những tài nguyên cảnh quan có thể khai thác trong đô thị du lịch. Chúng hiển hiện không chỉ bằng hình thái vật thể mà còn kể lại những câu chuyện cho tiếp cận thị giác và trải nghiệm không gian. Chẳng hạn các quảng trường và các con phố trung cổ châu Âu không chỉ cho ta những hình ảnh tạo hình thị giác ngẫu nhiên duy nhất mà còn ẩn trong những bức tường, ô cửa, lớp đá lát đường những huyền thoại, danh nhân hay thời gian tích đọng...

Cảnh quan sinh thái cho ta trải nghiệm cảm nhận về môi trường hơn là tiếp cận thị giác. Cảnh quan sinh thái của thành phố Venezia - thành phố của những kênh đào - là cảnh quan sinh thái nhân văn hơn là sinh thái tự nhiên bởi được tạo thành từ sự tương tác của con người với mặt nước. Đó là một tài nguyên cảnh quan của đô thị, được khai thác nhiều cho các mô hình resort lý tưởng và đô thị mới ngày nay. Đồng bằng sông Cửu Long có cảnh quan vườn giồng với “sông nước, miệt vườn” là một dạng cảnh quan sinh thái nhưng chưa là tài nguyên cảnh quan sinh thái vì chưa được nhào luyện qua quá trình “phi vật thể hóa”. Chúng cần được đầu tư, nghiên cứu và thực nghiệm ở cấp độ quốc gia mới mong trở thành tài nguyên cảnh quan du lịch.

Tài nguyên luôn đi liền với khai thác. Khả năng khai thác là nguyên liệu chính trong công tác tổ chức, hoạch định chiến lược du lịch và quy hoạch đô thị du lịch.

Cảnh quan phong cảnh và cảnh quan thiên nhiên của đô thị dưới góc độ du lịch mang đậm chất thẩm mỹ. Đà Lạt trong sương, Nha Trang trong nắng sớm hay hồ Gươm trong nắng thu Hà Nội là những cảnh quan phong cảnh và thiên nhiên đặc trưng, đậm chất thẩm mỹ đô thị. Nhưng chúng vẫn chưa là tài nguyên cảnh quan du lịch bởi các nhà hoạch định chiến lược du lịch, các nhà quy hoạch đô thị chưa coi chúng là một yếu tố cấu trúc chiến lược trong cấu trúc đô thị. Tất cả các đồ án quy hoạch đô thị đều có các luận chứng kinh tế kỹ thuật, luận chứng văn hóa - xã hội nhưng chưa bao giờ có luận chứng thẩm mỹ cho đô thị. Không có luận chứng thẩm mỹ đô thị thì sẽ không có cấu trúc thẩm mỹ cho đô thị. Nên mới có chuyện “có tượng mới tìm nơi đặt tượng”. 

“Thẩm mỹ đô thị, mảnh đất còn hoang vắng ở ta” trong một hội thảo về quy hoạch đô thị Hà Nội, đến nay vẫn thế. Một khi cái đẹp không ngang bằng cái có ích, cái có lợi trong cấu trúc vĩ mô thì cái đẹp của cảnh quan phong cảnh, cảnh quan thiên nhiên mà đô thị du lịch có được chỉ là cái để nhìn, chứ chưa thể là cái để khai thác.

Vào mùa mưa, Đà Lạt khoác lên mình màu sương bàng bạc, huyền ảo khi nhìn từ các đỉnh đồi. Trong ảnh là một góc đồi chè Cầu Đất bị làn mây trắng phủ kín. Ảnh: Quý Sài Gòn/VNExpress


Tài nguyên môi trường: Thay đổi môi trường là một lý do quan trọng của du lịch. Chúng ta thường chọn một nơi có môi trường sống tốt hơn, khác với nơi ta ở, phù hợp với nhu cầu và điều kiện sống hiện tại để đi du lịch. Những nơi đó thường không phải là đô thị.

Vậy tài nguyên môi trường trong đô thị du lịch là gì? Ở khái niệm vật thể của môi trường đô thị, ta không đi sâu vào các chu trình sinh thái, các ổ sinh thái của hệ sinh thái môi trường đô thị. Bài viết đề cập một phần nhỏ của các dạng môi trường đô thị được coi như tài nguyên môi trường du lịch. Cấu trúc của môi trường đô thị có thể chia làm hai dạng: cấu trúc vật thể và cấu trúc phi vật thể. Cấu trúc vật thể của môi trường đô thị gồm nhà cửa, đường sá, hệ thống không gian đô thị, cây xanh - mặt nước và ngoại ô. Cấu trúc phi vật thể của môi trường đô thị mang tính nhân văn rõ nét. Đó là tinh thần của không gian và địa điểm trong đô thị, đó là cách sống và phong tục của cộng đồng dân cư đô thị và hệ giá trị văn hóa đô thị được hình thành như một truyền thống văn hóa.

Hội An nhìn từ trên cao. Ảnh: Báo điện tử Tổ quốc


Dù là môi trường tự nhiên hay nhân tạo, tài nguyên môi trường đô thị sớm được nhận biết và khai thác cho du lịch. Cái ồn ã của chợ Đồng Xuân; cái xô bồ huyên náo của các phố đi bộ, phố ẩm thực Bùi Viện Sài Gòn, Tạ Hiện Hà Nội; cái thanh tao tuệ mẫn của Văn miếu Quốc Tử Giám hay cái lịch lãm, tinh tế và thanh tĩnh của nhà vườn Kim Long xứ Huế đều đã được khai thác như những tài nguyên du lịch của đô thị. Đó là những điểm đi và đến, thăm và cảm, thấy và nhận của du khách.

Nhưng chúng ta đều biết cấp độ khai thác các tài nguyên môi trường đô thị đó còn ở mức thấp, kiểu như có gì làm nấy, thiếu những chiến lược xây dựng cấp độ hàng đầu quốc tế, thiếu ngân sách đầu tư để các tài nguyên môi trường đô thị trở thành các biểu trưng cấp quốc tế của đô thị. Một quảng trường sang trọng và lịch lãm như Place du Vosges của Paris vẫn còn là mơ ước cho các tài nguyên môi trường đô thị của chúng ta.

Nhà vườn An Hiên ở phường Kim Long, TP Huế (Thừa Thiên - Huế) mang dấu ấn đậm nét, vừa có dáng vẻ quý tộc, lại vừa có màu sắc dân gian truyền thống. Ảnh: Znews


Việt Nam còn quá ít đô thị du lịch

Đô thị du lịch của Việt Nam có thể đếm trên đầu ngón tay. Sa Pa, Phú Quốc, Hội An, Đà Lạt, Sầm Sơn là những đô thị du lịch rõ nét. Đô thị được hiểu ở đây là đô thị thực thể chứ không phải ranh giới hành chính, với đầy đủ cấu trúc của một đô thị. Nhiều đô thị lớn khác có hoạt động du lịch sôi động nhưng không chiếm phần quan trọng trong kinh tế đô thị. Các đô thị du lịch luôn toát lên chất lạ, vẻ đẹp và sự hấp dẫn.

Các đô thị du lịch như Sa Pa, Đà Lạt, Hội An hình thành một cách tự phát và kết tụ dần từ các tài nguyên du lịch ban đầu như địa điểm, khí hậu (môi trường) và tài nguyên văn hóa. Những năm gần đây Phú Quốc và Sầm Sơn được hình thành từ chủ trương và đầu tư, tất nhiên với các tài nguyên du lịch vốn đã tiềm ẩn. Quy hoạch vật lý (physical planning) của các đô thị này không khác gì quy hoạch các đô thị thông thường nên khó định hình dạng thái một đô thị du lịch chuẩn. Không phải do các chuyên gia quy hoạch mà là do chưa có khung pháp lý, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn cho đô thị du lịch.

Dù là môi trường tự nhiên hay nhân tạo, tài nguyên môi trường đô thị sớm được nhận biết và khai thác cho du lịch. Ảnh: Lê Quân


Năm 2023, tổng thu du lịch chiếm 6,6% GDP và mục tiêu năm 2030 là 14%. Điều đó đòi hỏi phải cấp thiết hình thành thêm nhiều đô thị du lịch và có những đô thị du lịch chuẩn quốc tế. Có nhiều điều kiện để hình thành đô thị du lịch, nhưng ở khía cạnh vật thể thì không gian và thời gian là hai yếu tố tiên quyết. Không gian như địa điểm, môi trường, cảnh quan đô thị. Thời gian lại là yếu tố ngoài đô thị, chủ yếu là thời gian rảnh của xã hội. Thời gian rảnh là thời gian tái tạo sức lao động, không có thời gian rảnh sẽ không có du lịch. Đáng tiếc, hiện nay không chỉ ở ta mà ở tầm quốc tế cũng chưa coi trọng thời gian rảnh cho lắm. 

Thiết nghĩ, con người chỉ có 3 dạng thời gian: lao động, ngủ và thời gian rảnh. Thời gian rảnh đang tăng dần khi nhiều nước làm việc 4 ngày/tuần, nước ta cũng giảm còn 5 ngày/tuần. Thời gian rảnh tăng thì cơ hội du lịch được mở rộng và nhu cầu đô thị du lịch cũng tăng thêm. Một chiến lược phát triển đô thị du lịch đủ tầm sẽ giúp một phần thực hiện mục tiêu 14% tổng thu du lịch trong GDP quốc gia. Hơn nữa, du lịch cũng là văn hóa sẽ làm cho đời sống văn hóa của người Việt Nam nâng cao và hoàn thiện hơn. 

KTS. Nguyễn Luận

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.