Đô thị hóa ở Trung Quốc: Mối lo “gần mực thì đen”

 16:00 | Thứ bảy, 26/12/2015  0
Sau hơn 30 năm “đô thị hóa”, Trung Quốc đã tạo ra những vùng đô thị (metropolis) và siêu vùng đô thị (megacities) có dân số tiệm cận 100 triệu người và chưa có dấu hiệu dừng lại. Sự tăng trưởng “vô tiền khoáng hậu” khiến nhân loại sửng sốt đó được thúc đẩy bởi động lực dữ dội muốn trở thành “đại công xưởng” của thế giới. Dù có thể chế chính trị tương đồng, Việt Nam không thể và cũng không nên trở thành “công xưởng” dù với quy mô nào. Do vậy chúng ta cần sớm rút ra các bài học để tránh đi vào vết xe đổ của họ.

Thủ đô Trung Quốc thường xuyên chìm đắm trong bầu không khí ô nhiễm. Ảnh TL


Mất bền vững kinh tế
Đô thị hóa Trung Quốc (TQ) đã khai thác kém hiệu quả tài nguyên đất đai, mà quyền sở hữu thuộc về nhà nước nếu là đất đô thị, thuộc sở hữu tập thể hợp tác xã nếu là đất nông nghiệp. Hiện tượng đô thị hóa đất đai đi trước đô thị hóa dân số dẫn đến diện tích đất phi nông nghiệp bình quân đầu người cả nước từ 152m2/người năm 2000 tăng lên đến 175m2/người năm 2010. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do quy hoạch không gian yếu kém, mặt khác do chuyển đổi hương thành trấn, huyện lên thành phố và mở rộng địa giới thành phố ra vùng nông thôn xung quanh, trong khi đất chưa xây dựng trong nội thành vẫn còn nhiều nhưng đã được cấp hết cho các dự án. Việc cấp đất tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách đô thị (có khi, có nơi chiếm tới 70% thu ngân sách, trong khoảng 2005-2011 nguồn thu từ đất đã tăng gấp sáu lần!) nên đô thị luôn khát đất, mà để có thêm đất thì lại phải mở rộng địa giới đô thị.
Đô thị hóa theo chiều rộng khiến tỷ suất vốn đầu tư tính cho 1.000m2 đất xây dựng của TQ năm 2010 chỉ bằng 1/2 của Hoa Kỳ, 1/6 của Đức và 1/10 của Anh và Nhật. Thâm Quyến là thành phố đạt tỷ suất GDP bình quân trên đơn vị diện tích đất đai cao nhất Trung Quốc, mỗi 1.000m2 tạo được 400 triệu NDT/năm (khoảng 1.400 tỉ đồng), nhưng cũng chỉ bằng 1/10 Tokyo, 1/5 Singapore, còn Thượng Hải thì thấp hơn nữa, chỉ bằng 7%.
Việc mở rộng đô thị theo dạng “ly tâm” khiến nhiều nông dân bị thu hồi đất ở nhưng không được bồi thường thỏa đáng, bị bắt buộc chuyển vào ở trong các căn hộ chung cư cao tầng, phải thay đổi lối sống và cách kiếm sống truyền thống, nhưng lại khó tìm được việc làm vì không qua đào tạo. Tình trạng “đô thị hóa bắt buộc” này đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nông dân.
Tình trạng tương tự cũng diễn ra ở nước ta. Thí dụ địa giới Hà Nội được mở ra quá rộng: đến 2014 tỷ lệ đô thị hóa là 41,9%, mật độ 2.087 người/km2. Hay như cả huyện Chí Linh (Hải Dương) chuyển đổi thành thị xã Chí Linh, năm 2010 tỷ lệ đô thị hóa 58,7%, mật độ 548 người/km2. Cả nước năm 2008 diện tích đất phi nông nghiệp bình quân đầu người là 392,8m2, đến năm 2014 tăng lên tới 418,6m2/người.
Năm 2012 ,TQ có hơn 400 thành phố thiếu nước, trong đó có 114 thành phố thiếu nước nghiêm trọng, nhất là ở miền Bắc. Mặt khác để có thêm nguồn đất đô thị rẻ tiền, nhiều diện tích mặt nước đã bị san lấp, chẳng hạn thành phố Vũ Hán vốn nổi tiếng nhiều hồ thì 70% trong số đó đã bị san lấp trong 20 năm qua, gây tình trạng ngập lụt khi mưa lớn. Tài nguyên khoáng sản cạn kiệt cũng khiến hơn 40 thành phố mỏ rơi vào suy thoái.
Một số đô thị Việt Nam bắt đầu gặp khó khăn trong cấp nước do nguồn nước ngầm suy giảm, nguồn nước ngầm và nước mặt cho các đô thị ven biển bị nhiễm mặn. Nạn lấp hồ, san đất tại các vùng thoát nước để xây bất động sản kinh doanh đã gây ngập úng trầm trọng tại nhiều đô thị, mà TP.HCM là trường hợp điển hình.
Công nghiệp hóa hiển nhiên cần đến nhiều năng lượng, nhưng phát triển mù quáng các ngành công nghiệp tốn năng lượng như gang thép và ximăng để phục vụ xây dựng đã tạo ra sản xuất dư thừa và gây căng thẳng cho việc cung ứng năng lượng. Năm 2011 toàn ngành xây dựng, vật liệu xây dựng và vận hành công trình hạ tầng của TQ đã tiêu hao 27% nhu cầu năng lượng cả nước.
Ở Việt Nam, tình trạng dư thừa công suất của các nhà máy gang thép và xi măng cũng đang diễn ra, trong khi sắt thép giá rẻ của TQ đang tràn vào. Các khu công nghiệp chiếm đất tràn lan, len lỏi khắp nơi, không hề có hành lang không gian ngăn cách với các khu cư dân càng làm trầm trọng hơn mức độ ô nhiễm ở nhiều đô thị.
Tình trạng duy ý chí, đầu tư mù quáng trên thị trường bất động sản tại TQ đã tạo ra nhiều lãng phí (như các thành phố ma), nhiều nợ xấu không chỉ cho các nhà đầu tư mà cả cho ngân sách đô thị, có thể dẫn đến căng thẳng tài chính quốc gia như nhiều chuyên gia tài chính quốc tế đã cảnh báo.
Tình trạng bong bóng bất động sản diễn ra ở Việt Nam dăm năm nay là bài học đắt giá cho cả giới kinh doanh và chính quyền các thành phố lớn nước ta.

Một dòng sông tử thần ở Trung Quốc. Ảnh TL


Mất bền vững xã hội
Đô thị hóa dân số chủ yếu vẫn là dựa vào số nông dân nhập cư mưu sinh trong đô thị hoặc là nông dân ngoại thành trở thành dân đô thị thông qua “đô thị hóa tại chỗ”. Thế nhưng chính sách hộ khẩu lại kỳ thị nông dân nhập cư, không xem họ là người dân đô thị thực sự, khiến họ phải chịu nhiều bất bình đẳng xã hội, từ thu nhập đến nhà ở, dịch vụ y tế và cả đến việc học tập của con cái. Theo kết quả nghiên cứu của học giả Trung Quốc thì khi có cùng công việc và cùng trình độ văn hóa, chênh lệch lương giữa người bản địa và người nhập cư có thể đến 40%. Hậu quả là hiện tượng “xa cách xã hội” ngày càng nặng nề.
Ở Việt Nam tình trạng thiếu chăm lo chỗ ở và ổn định đời sống lao động nhập cư đã khiến nguồn cung lao động không bền vững, cũng đang tạo ra bất ổn xã hội.
Vì mải mê đuổi theo lợi ích kinh tế mà nhiều chính quyền địa phương của TQ hy sinh tài nguyên thiên nhiên và văn hóa. Chính quyền nhiều nơi chỉ coi trọng giá trị kinh tế của các di sản thiên nhiên và di sản văn hóa, mà xem nhẹ các giá trị quý báu của chúng về các mặt lịch sử, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, nên đã xảy ra các hiện tượng phá hoại di sản, “thương mại hóa, nhân công hóa, đô thị hóa” các khu vực cảnh quan thiên nhiên, di sản bị khai thác quá sức chịu đựng của môi trường sinh thái.
Qua chiến tranh, di sản văn hóa lịch sử trong đô thị Việt Nam không còn nhiều nhưng vẫn không được coi trọng và bảo tồn đúng mức. Nhiều di sản đô thị bị lấn chiếm, chưa được khôi phục hoặc được khôi phục nhưng mất bản sắc.
Tại TQ quan điểm thẩm mỹ của xã hội trở nên méo mó, xem công trình cao tầng và siêu cao tầng là tiêu chí của hiện đại hóa, muốn trong thời hạn ngắn ngủi dùng loại hình kiến trúc “mới, lạ, kỳ quái” để thay đổi hình ảnh đô thị, khiến bộ mặt đô thị cả nước trở nên đồng dạng, kém bản sắc và cứng nhắc.
Ở Việt Nam khuynh hướng xấu cũng đang diễn ra tương tự, chẳng hạn các đô thị tuy ở những vùng khí hậu, cảnh quan địa lý khác nhau (trung du, đồng bằng, ven biển, miền núi...) nhưng bộ mặt kiến trúc đô thị của chúng lại rất giống nhau, cùng bị chi phối bởi vài “kiểu thẩm mỹ lệch lạc”. Đô thị lan tỏa vô tổ chức về nông thôn đã làm mất đi nhiều di sản văn hóa bản địa. Nhiều vùng nông thôn cũng mải mê học theo đô thị để xây dựng nông thôn mới, du nhập các yếu tố và phong cách thành phố vào nông thôn khiến kiến trúc truyền thống, phong cảnh đồng quê bị mai một.
Kiến trúc nhà ở nông thôn nước ta cũng đang bị lai tạp, đánh mất bản sắc, bị một số mẫu nhà xấu của đô thị thay thế hàng loạt.

Mất bền vững môi trường 
Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước và môi trường đất đô thị và vùng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tinh thần của người dân.
Hiện tượng mù trời khói bụi xảy ra nhiều lần và đạt mức độ nghiêm trọng nhất trong lịch sử, từ phạm vi cục bộ đã trải rộng ra cả một vùng. Số ngày có mù khói bụi ở các vùng đô thị lớn như Kinh-Tân-Ký, Tam giác châu Trường Giang, Tam giác châu Chu Giang... đã vượt quá 100 ngày mỗi năm, có năm vượt quá 200 ngày.
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước đô thị rất gay gắt, đe dọa sự an toàn cấp nước đô thị và sức khỏe nhân dân. Phân hóa học, thuốc trừ sâu và nước bẩn đã làm môi trường đất bị ô nhiễm nghiêm trọng.Tình trạng chất thải rắn bao vây thành phố đã trở nên nguy hiểm, tốn nhiều đất chôn lấp, là nguyên nhân chủ yếu của nhiều vụ phản đối tập thể gay gắt của người dân đô thị.
Khoảng 2/3 đô thị thiếu nước do tình trạng ô nhiễm nước mặt và nước ngầm. Việc xả trộm nước thải công nghiệp có chứa kim loại nặng và các chất độc hại khác đã tạo ra hơn 400 “làng ung thư”.
Mặt khác để có thêm nguồn đất đô thị rẻ tiền, nhiều diện tích mặt nước đã bị san lấp, chẳng hạn thành phố Vũ Hán vốn nổi tiếng là nhiều hồ thì 70% trong số đó đã bị san lấp trong 20 năm qua, gây tình trạng ngập lụt khi mưa lớn.
Ở Việt Nam không khí khói bụi, giao thông tắc nghẽn, ngập lụt tràn lan, công viên cây xanh quá ít, kênh mương ô nhiễm... cũng đang đe dọa môi trường sinh thái các đô thị lớn. Nhiều đô thị trung du, miền núi địa hình dốc đã bị san phẳng, đảo lộn hệ thoát nước tự nhiên, tạo những ẩn họa lũ ống, sạt lở... “Làng ung thư” cũng là sản phẩm của thời công nghiệp hóa, đô thị hóa.

Thách thức chính trị
Đô thị hóa và công nghiệp hóa TQ với tốc độ cao đặt ra nhiều thách thức về chính trị, trong khi thể chế quản lý hành chính không kịp đổi mới, năng lực bộ máy hành chính yếu kém. Xu hướng khá phổ biến là chỉ chăm lo lợi ích của doanh nghiệp và phát triển bất động sản mà ít chăm lo lợi ích của người dân, chạy theo lợi ích kinh tế mà coi nhẹ chức năng văn minh tinh thần của đô thị, quá coi trọng vẻ ngoài của đô thị mà xem nhẹ phát triển hạ tầng, quá coi trọng tiến độ và số lượng mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả.
Quản lý thiếu minh bạch, thiếu dân chủ và thiếu các quyết sách khoa học, thiếu cơ chế ứng phó, đề phòng và xử lý các sự kiện đột phát của quần chúng đã gây ra nhiều sự kiện rối loạn trật tự xã hội. Cung cách quản lý quan liêu, duy ý chí, kể cả ép buộc lấy đất nông nghiệp, thái độ hống hách của các đội “thành quản” đã tạo ra bất ổn xã hội đáng lo ngại.
Nhiều nơi chính quyền chạy theo tốc độ đô thị hóa, thậm chí đưa tỷ lệ đô thị hóa quá cao thành mục tiêu phấn đấu, do đó đã đưa ra những quyết định xa rời thực tế, chẳng hạn Thiểm Tây, Vân Nam, Quảng Tây đặt mục tiêu đưa tỷ lệ đô thị hóa tăng thêm 2% mỗi năm, thậm chí niên độ 2010-2011 thành phố Trùng Khánh thông qua điều chỉnh chính sách chuyển đổi trên quy mô lớn hộ tịch nông dân thành hộ tịch thị dân mà đã nâng tỷ lệ đô thị hóa tăng 8,5% trong một năm!
Để tạo động lực tăng trưởng đô thị, chính quyền quá coi trọng thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế tạo theo định hướng xuất khẩu mà bỏ qua sức mạnh của thị trường tiêu dùng nội địa, mải miết theo đuổi xây dựng các “đại đô thị quốc tế hóa”, các khu trung tâm thương mại và đủ loại “khu vực phát triển” mà không xem xét sức chịu tải của đô thị về các mặt cấp thoát nước, đất đai, năng lượng, môi trường sinh thái, dễ dàng chấp nhận các dự án tiêu thụ nhiều nước, nhiều năng lượng, xa rời các quy luật kinh tế và điều kiện thực tế của địa phương, khiến nợ công tăng còn nhân dân hao sức tốn của.
Kinh nghiệm TQ cho thấy thể chế quản lý lạc hậu, năng lực quản lý yếu kém của chính quyền đô thị chính là nhân tố quyết định sự thành bại của chính sách phát triển đô thị bền vững. Mặt khác, các nhà quản lý của Việt Nam nên tham khảo thể chế thành phố cấp phó tỉnh, thị xã cấp phó huyện để xử lý trường hợp khi đô thị lớn mạnh lên và chuyển sang cấp bậc cao hơn thì cũng không cần phải di chuyển tỉnh lỵ, huyện lỵ đi nơi khác rất phiền phức, tốn kém. (Các thành phố cấp phó tỉnh là thành phố rất lớn nhưng do nhà nước không muốn tăng số thành phố trực thuộc nên dù thuộc tỉnh nhưng được nâng lên thành “thành phố cấp phó tỉnh” để giao quyền tự chủ, không phải chịu sự quản lý hành chính trực tiếp của cấp tỉnh. Loại thành phố cấp phó huyện cũng vậy)

TS. Phạm Sỹ Liêm

Trung Quốc hiện có 1,35 tỉ dân, mỗi năm có thêm khoảng 13,5 triệu dân đô thị. Tính đến 2011, cả nước có 657 thành 
phố cấp tỉnh, 1.627 thành phố cấp huyện, 19.683 thị trấn. Gần đây TQ đã sáp nhập các vùng đô thị lớn để thành lập hai siêu vùng đô thị khổng lồ là thành phố Tam giác châu Chu Giang (Quảng Đông) rộng 39.380km2 với số dân 63 triệu người, và thành phố Kinh-Tân-Ký (Bắc Kinh-Thiên Tân-Hà Bắc) rộng 215.870km2 với số dân 110 triệu người.

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.