Trong nghiên cứu mang tên “Một số khảo sát thực trạng về trật tự vệ sinh môi trường” năm 2010 do PGS.TS Nguyễn Minh Hoà làm chủ nhiệm, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát khu vực trung tâm TP.HCM, tập trung ở các trục đường lớn, các không gian công cộng, các khu phố, ô phố tại các quận 1, 2 và 10. Đối tượng khảo sát tập trung chủ yếu vào nhóm có nguy cơ gây ra việc mất mỹ quan đô thị, như những người bán hàng rong ở lòng đường vỉa hè, những người hành nghề xe ôm, xe ba gác, xích lô đạp, những lượm nhặt và người mua bán ve chai, những người vô gia cư sống bám vào đường phố. Theo đó, có khoảng 69 hoạt động mưu sinh bám mặt đường thống kê được. Nếu tính toàn thành phố thì có đến hàng vạn người (có thể nhiều hơn nữa) cá nhân, hộ gia đình sống nhờ vào vỉa hè, mặt đường.
Kết quả khảo sát về trật tự, vệ sinh, môi trường Nhóm những người bán hàng ở lòng đường vỉa hè: |
Trên cơ sở khảo sát, nhóm nghiên cứu cho rằng cần xác định việc xây dựng trật tự và văn minh đô thị là một tiến trình lâu dài. Trong khi xây dựng các chính sách và các giải pháp, cần kiên trì, duy ý chí, không ảo tưởng mà phải xuất phát từ bối cảnh thực tế. So với các nước khác phát triển đô thị hiện đại của chúng ta đi sau với khoảng cách thời gian khá xa (các nước châu Âu tiến hành đô thị hoá vào nửa cuối thế kỷ 17, Bắc Mỹ vào đầu thế kỷ 18, Nhật Bản vào thời Minh Trị Duy Tân - 1858, các con rồng châu Á vào khoảng 1960-1970); hơn thế nữa tiến trình này lại rất chậm (sau hai lần đô thị hoá lần thứ nhất vào thời Pháp thuộc (1870-1954), lần thứ hai (1986-nay) mới chỉ đạt được 26% mức độ đô thị hoá xét về khía cạnh dân số); do vậy chúng ta cần đẩy nhanh tốc độ phát triển về nhiều lĩnh vực khác nhau. Nếu chỉ xuất phát từ mong muốn chủ quan (cho dù mong muốn rất cao cả) không dựa trên thực tế thì chúng ta sẽ đưa ra các giải pháp nôn nóng chỉ có tác dụng tức thì, hoặc phản tác dụng. Mong muốn mau chóng trở thành Singapore, hay Seoul là điều rất không khả thi. Để có được văn minh đô thị và văn hoá thị dân phải xây dựng kết hợp rất nhiều các yếu tố khác nhau từ cơ sở vật chất đến thiết chế và quan trọng nhất (cũng là khó khăn nhất) là hình thành nên ý thức “tự thân” của cộng đồng và mỗi cá nhân.
Theo nhóm nghiên cứu, các giải pháp phải thực tế và hiệu quả, nhưng cố gắng không làm xáo trộn đời sống nhân dân, hạn chế việc làm mất mưu sinh của một số lượng dân cư đông đảo, nhất là người nghèo. Nghiên cứu viết: "Đây là một quan điểm của nhóm nghiên cứu đưa ra nhưng chưa nhận được đồng thuận cao từ phía các cán bộ chính quyền" và nhận định: "Nếu không cân nhắc, có thể chúng ta sẽ đẩy họ vào cảnh khốn khó hơn. Trong trường hợp này các chính sách “nhị nguyên” (hai bên cùng có lợi, hai bên cùng nhượng bộ) xem ra là có thể chấp nhận được trong giai đoạn quá độ đô thị và giai đoạn chuyển tiếp của lộ trình từ chỉnh trang nâng cấp sang hiện đại, hoàn thiện".
Nhóm nghiên cứu cho rằng nên tiến hành theo hướng: tuyền truyền thuyết phục thay đổi thói quen và hành vi tiêu cực đi trước, luật và chế tài đi sau; đưa giáo dục văn minh, văn hoá đô thị thành chiến lược lâu dài, đặc biệt dành cho thế hệ trẻ...
Đồng thời, cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật trong mức có thể để cho các qui định pháp luật có cơ sở tồn tại như xây nhà vệ sinh công cộng, bố trí thùng rác, các biển báo, đội ngũ những người làm vệ sinh cùng với các thiết bị chuyên dùng.
Nghịch lý vỉa hè và chính sách “nhị nguyên” Không phải ngẫu nhiên mà nhóm đối tượng không đồng ý với lệnh cấm bán hàng rong nhiều nhất lại là các phó chủ tịch phường. Anh chàng Đặng Xuân Sỹ bị tịch thu chín chiếc xe đạp là phương tiện bán cà phê dạo như một sự mặc nhiên, tới mức không có tờ biên bản nào. Anh Trịnh Xuân Tình trong khi đang bán hàng rong cũng bị đánh đập, còng tay đến ngất xỉu mà còn bị nói là chống người thi hành công vụ rồi lăn ra ngủ. Lực lượng trật tự đô thị nhân danh bảo vệ trật tự nhưng lại gây ra sự mất trật tự khác, còn hơn cả những người nghèo khổ kia, không chỉ với cảnh rượt đuổi, tịch thu, bắt bớ thường xuyên, mà còn tạo nguy cơ lạm dụng công quyền, vi phạm pháp luật. Lê Vy |
T.Duy - K.Doãn