Người nhà nước trong văn chương Việt Nam hôm nay

 21:28 | Thứ bảy, 03/06/2017  0

Người nhà nước đang đóng vai trò trung tâm, thậm chí là “hình mẫu lý tưởng” xã hội. Có thể thấy “Người nhà nước” là một lực lượng mạnh chi phối xã hội trên nhiều phương diện và trở thành hình tượng nghệ thuật trong văn chương (cùng kịch, điện ảnh)… Cuộc tọa đàm do Người Đô Thị tổ chức với sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn học về chủ đề này vừa được diễn ra tại Hà Nội, Người Đô Thị sẽ lần lượt giới thiệu các ý kiến thảo luận về một đề tài thuộc loại “bị bỏ quên trong văn học”.

 

Kỳ 1: Mô tả mẫu người công quyền trong văn chương

Không quá nổi bật và thường xuyên nhưng hễ có dịp, văn chương cũng dành sự chú ý đến đời sống, diện mạo lẫn tâm thái của những công chức, viên chức trong bộ máy hành chính công quyền của nhà nước. Trong nhiều đặc tính khá phức tạp của họ, văn giới có vẻ hứng thú với con đường tiến thân và cách hành xử thường ngày, đi kèm khẩu khí, thói quen nhiều khi mờ nhòe giữa công và tư, giữa kẻ bề trên và phận tôi tớ, giữa mánh lới ăn chơi bòn rút và lòng tận trung phò nước trợ dân...

Từ gốc gác quan và lại

Trong xã hội Việt truyền thống, quan và lại là kiểu người công quyền trực tiếp can dự vào đời sống nhân quần nhiều nhất và cũng là đích ngắm tiến đến của bao người. Cặp đôi này, như Toàn thư ghi chép, gắn chặt như hình với bóng, “quan không có lại thì không đi được, lại không có quan thì không đứng được”. Thói tính trọng danh tước và ưa quyền bính đã câu thúc bất kì ai có chút chữ nghĩa phải cố công thi cử, đặng được cất nhắc phẩm trật càng càng cao tốt, không thì cũng làm chân chạy việc giấy tờ, phục dịch chốn triều quan. Dĩ nhiên, một khi đã bó thân qua cửa công quyền, dù theo lối tuyển cử hay khoa cử, họ vẫn phải chịu những thước đo của xã hội.

Văn sĩ nhà Nho, tùy theo thời thế hưng thịnh hay suy tàn của phe phái mình, tỏ ra tích cực nhất trong việc “cân đong” hình ảnh mẫu người quan lại lí tưởng. Theo đó, hoàn hảo và xứng đáng được chờ đợi là kiểu quan, như Nguyễn Trãi vẫn thường hình dung, “trị dân phải theo phép công bằng, làm việc cần mẫn […], lấy việc quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỉ” (Quân trung từ mệnh tập). Nguyễn Trãi không chỉ đề đạt mà còn là hiện thân của mẫu quan lại này nên dưới ngòi bút của ông, “vua Nghiên Thuấn, dân Nghiêu Thuấn” có sức lay động khá lớn, lấp lánh mô hình thái bình thịnh trị hướng theo tinh thần đức trị của Nho giáo.

Từ văn chương Nguyễn Trãi về sau, không khó để lẩy ra các mô tả có tính chất công thức về những ông quan thanh liêm, tận trung với vua, đồng thời ra sức giáo hóa, vừa sai khiến (sử dân) vừa chăm bẵm (mục dân) những cá nhân thấp cổ bé họng, con sâu cái kiến trong xã hội về cơ bản là cư dân thuần nông. Cho đến XIX, Phan Huy Chú vẫn rất nhiệt tình ghi chép những “người phò tá có công lao tài đức”, đủ để liệt truyện hóa nhiều thân danh chưa kịp vang bóng trong chính sử.

Một số tác phẩm văn học mà trong đó nhà văn mô tả “người cán bộ” không chỉ ở khía cạnh đạo đức mà còn ở khả năng thích nghi đời sống mới, tác phong mới.

Tuy thế, văn chương nhà Nho cũng không thiếu tiếng thở dài, những nỗi ưu tư về thực trạng “thoái hóa, biến chất” của một bộ phận không nhỏ quan lại mà thời càng loạn thì xuất hiện càng đông đảo. Sớm phát hiện và nhạy cảm với bộ mặt thật của nghề làm quan là những văn sĩ đề cao kiểu thanh chức, tản quan, nhàn chức vốn ít quan hệ đến chính sự. Khi đó, thay vì khoảng cách cung kính kẻ bề trên, họ xích lại gần hơn đối tượng mũ cao áo dài bằng lối văn tả thực, để tận mục những sinh hoạt thường ngày, từ ăn ở sinh hoạt đến tính cách, hành vi.

Chuyến lên kinh của Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự, 1781) đúng thời tao loạn cho chúng ta nhiều thông tin thú vị và sát thực về đời sống quan trường trung ương. Đáng chú ý là cái cách các “công khanh” trả công chữa bệnh của vị danh y, lúc nào cũng “biếu tôi rất hậu”, “biếu xén không biết bao nhiêu mà kể”, khiến hôm nay giật mình thắc mắc lấy đâu lương bổng để chăm lo bản thân đến thế.

Cùng thời điểm, vì dừng lại khá lâu ở “đôi  bạn” Trịnh Sâm và Nguyễn Khản nổi tiếng ăn chơi, Phạm Đình Hổ (Vũ trung tùy bút) còn cho thấy, về bản chất, quyền bính bao giờ cũng nảy nở trong nhóm, thậm chí nhóm rất nhỏ, kiểu “Thịnh Vương [Trịnh Sâm] lại thích đi ngự chơi, lúc đi thưởng hoa, lúc đi câu cá, thế nào cũng có ông Nguyễn Khản cùng đi […] Trong cung có bầy bể cạn núi non bộ và cảnh hoa đá gì, đều phải qua tay ông Nguyễn Khản sửa sang thì mới vừa ý chúa”. Nhưng quan lớn đôi khi cũng “bị nhục với bọn kiêu binh” nên kinh nghiệm về sự được mất phải qua bể dâu mới thấu. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Khuyến, người sớm rút lui chốn quan trường, không lấy làm mặn mà trước cảnh quý tử nối nghiệp: “Từ khi thấy cậu con lên làm chức quận/Khiến cho già này không làm thơ nữa” – Ngẫu tác. Dĩ nhiên cụ Tam Nguyên vẫn làm thơ nhưng chủ yếu là loại thơ cười vui với cái nghèo, với cảnh thú thôn dã, khác hẳn truyền thống mê đắm đạo nghĩa quân thần thường có.

Ở đây cần lưu ý rằng, văn chương nhà Nho viết về tầng lớp quan lại, dù ước lệ hay tả thực, vẫn là tiếng nói của người trong cuộc. Viết về quan lại nào thì cũng có bóng hình chính mình ở đó. Vậy nên phải cần đến cái nhìn phía khác, phía thường dân,  những người không bao giờ có đủ “ba trăm lạng” như đòi hỏi của viên quan huyện xử án mà nàng Kiều từng gặp. Họ vẽ chân dung quan lại theo bút pháp trào phúng, vỗ mặt thẳng thừng, “Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình/Ba bộ đồng tình bóp … con tôi”. Những đúc kết sắc sảo đến lạnh người “Con ơi nhớ lấy câu này/Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” chĩa mũi châm biếm vào đám “phì quan” có mặt khắp chốn.

Cho đến đầu XX, khi văn học quốc ngữ mới định hình rõ nét, nhiều cây bút tả chân đặc biệt ưa thích phê phán thứ quan lại vô trách nhiệm, nhũng nhiễu, lộng quyền. Cụ cử Phan Kế Bính khi bàn đến “quan dân” trong Việt Nam phong tục (1915) đã không quên trách cứ: “Cũng vì cách chuyên chế  mà quan với dân xa cách nhau một vực một giời”. Từ Sống chết mặc bay (1918) trở đi, vẫn trong cái nhìn của giới văn sĩ thấp cổ bé họng, từ Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, các mẫu hình người công quyền tựu trung ở sự tha hóa nhân cách. Đằng sau thái độ hạ bệ không chùn tay này, ta nhìn ra mưu cầu xóa bỏ tệ quan liêu phong kiến, đồng thời, hướng đến tinh thần văn minh, dân chủ. Hiện tượng này sẽ tương hỗ với các phong trào cách mạng đang nổi lên bấy giờ, và sẽ rẽ sang khúc ngoặt mới sau sự kiện 1945.

Một bước chuyển: “người cán bộ”

Một trong những kiểu nhân vật tái lặp trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là người cán bộ. Bước chuyển này trước hết bắt nguồn từ sự thay đổi mạnh mẽ trong bộ máy chính quyền: mỗi người cán bộ, dù cao hay thấp, đều phải là một “đầy tớ của nhân dân”. Mô hình xã hội mới không có chỗ cho kiểu “dân chi phụ mẫu” nên trong các diễn ngôn, chỉ có hình ảnh những cán bộ mới trên dưới một lòng “dân chi công bộc”. Họ xuất hiện trong văn chương trước hết là để khẳng định vẻ đẹp của con người cách mạng, nhiệt tình vun đắp và phát triển tình cảm “cá nước” với tất thảy người dân lao động.

Kiểu nhân vật người cán bộ (như trong Vợ chồng A Phủ, Việt Bắc, Rừng xà nu, Một chuyện chép ở Bệnh viện, Chủ tịch huyện, Dấu chân người lính…) cần thiết để giác ngộ chính trị quần chúng và hơn nữa, để cụ thể hóa những nhiệm vụ sát sườn với thực tế. Họ lần lượt là những cán bộ chỉ huy, cán bộ dân vận, cán bộ “ba cùng”… Và ngôn ngữ, hành động của họ cũng không nằm ngoài các chủ trương, đường lối đã vạch sẵn. Khuôn nếp đời sống lao động, chiến đấu với rất nhiều gương điển hình đi thẳng vào trang viết sau các chuyến đi thực tế của nhà văn. Mặt khác, bởi xã hội đặt lí lịch gia đình cán bộ ngang hàng kiểu gia đình xã viên nên chủ nghĩa bình quân là niềm an ủi để không ai phải thấy tủi hổ, mặc cảm vì vị thế hay hoàn cảnh vật chất của mình. Quả thật, khi cán bộ đi lên bằng cách “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước, 1948) hay từ “anh hàng cháo lòng” (Đôi mắt, 1948) thì ứng xử của họ đương nhiên luôn thô vụng không khác đa số quần chúng công nông là mấy.

         

Văn chương đương đại dường như chỉ mới quan sát mẫu người công quyền “cỡ vừa”, hiếm khi tiếp cận, tái hiện được thế giới quan quyền chóp bu như văn học truyền thống đã từng có. 

Nhưng một lần nữa, từ phía văn học dân gian, vẫn bắt gặp những cán bộ tư túi, vơ vét của công. “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” là mầm mống gây nên bất hòa, khiến chân dung cán bộ hiện nguyên hình là kẻ chỉ giỏi khua tay múa mép: “Đi xe cố vấn/Mặc áo chuyên gia/Ăn uống qua loa/Ấy là cán bộ”. Đà tiến này càng lúc càng quá trớn nên trong thập niên 1980, hàng loạt truyện tiếu lâm chính trị chủ yếu nhắm vào kiểu người cán bộ hách dịch, chuyên môn kém nhưng lắm mưu hèn kế bẩn.

Khi kinh tế thị trường bắt đầu len sâu vào các quan hệ xã hội thì nhà văn mô tả “người cán bộ” không chỉ ở khía cạnh đạo đức mà còn ở khả năng thích nghi đời sống mới, tác phong mới. Nhiều tác phẩm (Đứng trước biển, Mùa lá rụng trong vườn, Tướng về hưu, Thiên sứ, Cuốn gia phả để lại, Những mảnh đời đen trắng, Tiễn biệt những ngày buồn, Vũ điệu cái bô, Minu xinh đẹp, Cơ hội của Chúa, Luật đời và cha con…) thấp thoáng những anh cán bộ biết xoay xở sinh kế, hoặc tự nhận ra sai lầm, ấu trĩ trong cơ chế vận hành của thời cuộc. Mức độ gai góc, đa diện của những “công chức ngành giáo dục” như Đoài (Không có vua) tiêu biểu cho quá trình văn giới thoát khỏi các khuôn thức từng có về người cán bộ. Hơn nữa, với giọng điệu giễu nhại, hài hước đen, xu hướng trần thuật này dường như còn là tiếng nói tự đối lập, tự vấn, tự phủ nhận những thuyết giảng đẹp đẽ đã từng phổ biến về lí tưởng, phẩm chất người cán bộ mẫu mực. 

Tuy vậy, văn chương đương đại dường như chỉ mới quan sát mẫu người công quyền “cỡ vừa”, hiếm khi tiếp cận, tái hiện được thế giới quan quyền chóp bu như văn học truyền thống đã từng có. Bởi thế, văn giới ít khi đi xa hơn báo chí trong việc lên tiếng trước tệ vô cảm, máy móc “ăn theo, nói leo, trèo xe trước” của cán bộ công. Tình cảnh “sáng vác ô đi tối vác về”, thực chất, là hệ quả của môi trường hành chính sự vụ bất cập, phi nhân và điều này, đáng ra, rất nên được nhìn nhận, phân tích kĩ càng hơn. Liệu rằng, tâm lí ngại va chạm hệ thống, thiết chế quản lí xã hội trong thực tế đã vô tình dựng lên thái độ kiêng dè đẩy đến tận cùng kiểu nhân vật công quyền trong văn chương? (Còn tiếp)


Khái niệm “người nhà nước”  khó giải quyết rốt ráo. Do, về mặt hành chính nó chỉ công chức (quan), viên chức (lại),  những người ăn lương ngân sách và hoạt động trong bộ máy công quyền. Nhưng thể chế toàn trị nhìn chung đã  thiết kế bộ máy có khả năng  bao trùm mọi lĩnh vực cần quản lý, nên sẽ có  nhiều người  thuộc các tổ chức nhà nước nhưng không  hoàn toàn nằm trong cách hiểu về “công chức hay viên chức”, thí dụ  họa sĩ, diễn viên, công nhân... Những người tham dự  tọa đàm tạm thống nhất cách hiểu chung: “Người nhà nước là  người hưởng lương ngân sách và làm việc trong  không gian công quyền”.


Mai Anh Tuấn

» Ám ảnh đô thị qua văn học đương đại Việt Nam: Ba làn sóng

» Bơ vơ tìm lại thiên đường

» Đô thị chính là đời sống nhà văn

» Căn nguyên những ám ảnh tập thể

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.