Vùng nước, vùng chữ góc thành nam

 08:36 | Chủ nhật, 24/08/2025  0
Ở Hà Nội, không gian của các dòng chảy và mặt nước trở thành đặc điểm chính của thành phố ngay từ khi được tạo lập.

Bộ ba sông tạo ra hình thế thành lũy và phố phường đã được đúc kết: “Nhị Hà từ bắc sang đông. Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này”, trong khi đó kể từ khi hồ Gươm được hình thành vào thời cận đại, về mặt diễn ngôn văn hóa người ta hay nói tới bộ ba Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây như các nền cảnh chính của Thăng Long - Hà Nội. 

Có một thực tế là sách vở dành nhiều chữ cho khu vực sông hồ phía bắc thành phố, trong khi phần trũng hơn của Hà Nội lại nằm ở phía nam. Con đường thiên lý xuyên đất nước từ miền trong ra đây phải đi qua một vùng nhiều ao hồ và dòng nước. Ngay bên ngoài bức tường thành Đại La và các cửa ô phía nam, vùng đất Kẻ Mơ và Kẻ Sét gồm các làng mang hai từ chung là Mơ (tên nôm của Mai) và Sét (tên nôm của Liệt), chính là một yết hầu nước của kinh kỳ. Nằm trong một vùng rộng làm thành vành đai bao quanh thành phố, Mơ - Sét tham gia tạo ra một diện mạo của Hà Nội trong quá khứ. Rau xanh, con cá, bìa đậu phụ hay bát bún ốc là thức quà ngon của kinh kỳ, đều là sản vật tại chỗ. Nếp nhà, làng giáp, những mối quan hệ tinh thần làm chất kết dính con người, làm nên văn vật địa phương. 

Khung cảnh này biến động nhiều từ giữa thế kỷ XX khi quá trình đô thị hóa thu hẹp dòng chảy và lấp các ao hồ của một túi nước, diễn ra chóng vánh đã làm biến đổi nhiều thứ, kéo theo phong tục văn hóa. Lắng lại một dòng chảy thời gian, thử gạn xem sự đóng góp vào không gian văn hóa đô thị Hà Nội của vùng đất Mơ -Sét bây giờ có còn ý nghĩa như đã từng?

Yết hầu nước và đường thiên lý

Người định đô ở Thăng Long là Lý Thái Tổ đã chọn nơi “tiện nghi núi sông sau trước” để làm đất “kinh sư muôn đời”. Nước là thuộc tính của đất Long thành khi cái tên Thăng Long xuất phát từ tên một sinh vật thần thoại gắn với nước. Cái tên Hà Nội kế thừa có từ năm 1831 dưới thời Minh Mạng cũng để chỉ một vùng đất trong sông, cho thấy yếu tính thủy vẫn xuyên suốt. 

Vùng Mơ - Sét trên bản đồ Hà Nội 1893, thể hiện rất nhiều ao hồ và các đoạn sông. Ảnh: TL


Khu vực vùng Mơ - Sét phía nam thành có địa thế trũng hơn hẳn so với các vùng nhiều gò đất cao ở phía bắc và phía tây. Ta có thể phác một giới hạn có tính tương đối. Phía bắc là dòng sông Kim Ngưu làm hào nước cho bức tường lũy Đại La, chính là giới hạn phía nam kinh thành có từ thời Lý, được đắp lại nhiều lần như thời Mạc Mậu Hợp (1588) và Lê Hiển Tông (1749), ngoài chức năng phòng vệ còn đóng vai trò như một con đê vừa ngăn nước vừa có chức năng đi lại bên trên.

Khu vực ngoài cửa Cầu Dền, năm 1592 đã diễn ra trận chiến quyết định sự thất bại của nhà Mạc và đánh dấu sự trở lại Thăng Long của nhà Lê. Giới hạn phía tây là nhánh sông Lừ (Lư Giang) tách từ sông Kim Ngưu, chảy từ Xã Đàn xuống làng Phương Liệt rồi nhập vào sông Tô Lịch ở khu vực Linh Đàm. Giới hạn phía nam là vùng nước mênh mông có tên chung là đầm Sét mà nay còn lại vài đoạn nối với hồ Yên Sở và Linh Đàm. Phía đông là dải hồ Quỳnh, Thanh Nhàn và đoạn sông Kim Ngưu được kênh hóa từ năm 1979.

Thời Lê đây là đất một số phường của huyện Vĩnh Xương, phủ Phụng Thiên và các xã của huyện Long Đàm (sau đổi là Thanh Đàm rồi Thanh Trì), phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam. Thời Nguyễn, các địa danh trên được đổi tên thành huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức và huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội. 

Năm 1926, dưới chế độ Pháp thuộc, khi Hà Nội mang danh nghĩa là đất nhượng địa, các làng xã được cắt đặt thuộc các tổng Kim Liên, Hoàng Mai (huyện Hoàn Long) của Hà Nội và tổng Thịnh Liệt (huyện Thanh Trì), tỉnh Hà Đông. Huyện Hoàn Long thực chất là một vùng đệm dự trù cho quá trình quy hoạch mở rộng đô thị Hà Nội của người Pháp. Năm 1955, sau khi Hà Nội được tiếp quản, khu vực này nằm trong đơn vị hành chính là quận Quỳnh Lôi, sau đó là khu phố rồi quận Hai Bà Trưng cùng một phần Đống Đa và huyện Thanh Trì. Sự chuyển tiếp giữa quy chế hành chính của phường (ứng với thành thị) và xã (ứng với ngoại thành) tạo ra một sắc thái nửa tỉnh nửa quê là một thuộc tính quan trọng để nhận diện khu vực Mơ - Sét. 

Bản thân Kim Ngưu cũng là một phân nhánh của sông Tô Lịch, vốn chảy từ khu vực Thủ Lệ rồi kết hợp các vùng ao hồ rộng bên ngoài bức tường lũy, rồi đến lượt nó lại chia nước cho 2 con sông Lừ và Sét. Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Sông Kim Ngưu ở phía bắc huyện Thanh Trì. Xưa thông với Tây Hồ, sau bị bồi lấp dần, nay nước sông từ địa phận trại Yên Lãng huyện Vĩnh Thuận chảy xuống cầu đá, qua địa phận các huyện Thọ Xương, Thanh Trì, Thượng Phúc, Phú Xuyên, quanh co hơn 80 dặm, rồi hợp với sông Nhuệ”. 

Trên các văn bản, bản đồ hay địa chí cũ, tên Tô Lịch và Kim Ngưu, Lừ, Sét có thể bị gọi lẫn để chỉ chung một đoạn dòng chảy. Bản đồ Hà Nội 1873 đề tên các đoạn sông Kim Ngưu phía nam bức tường lũy Đại La là Tô Lịch. Người Hà Nội cho đến gần đây vẫn có thói quen gọi các con sông nhỏ trong nội thành đều là Tô Lịch. Nhìn chung chúng đều làm nên một vành đai nước, kết nối với vùng trũng xa hơn thuộc trấn Sơn Nam thời Lê, tạo ra những vùng đồng chiêm trũng và cánh đồng hoa màu ngắn ngày.

Một ngôi nhà phố Bạch Mai còn dấu vết thời gian cũ. Ảnh: NTQ


Trên nền mênh mông ruộng nước đó, các gò đống là nơi trú ngụ của cư dân các làng xã và các công trình của các triều đại. Văn bia ghi công đức một cặp vợ chồng người hàng thịt đã cung tiến đất và tiền cho làng Hồng Mai triều vua Lê Huyền Tông (1669) giúp ta hình dung một bối cảnh rộng lớn toàn vùng Mơ - Sét thời Hậu Lê: “Cảnh đẹp ấp Hồng Mai vốn lừng danh khắp huyện Thanh Trì. Phía trước đầm Thịnh Liệt sóng muôn ngựa dạt dào cuộn, mạch tụ Thăng Long; phía sau tháp Báo Thiên núi Tam Sơn chót vót cao, khí đọng Ngưu Thủy. Bên trái Mai Động nổi gò, hình phượng rắn chuyển mình; bên phải Tô Lịch vòng quanh, ánh nhật nguyệt chiếu sáng”. Văn bia nhắc đến cả sông Kim Ngưu (Ngưu Thủy) và Tô Lịch, cùng đầm Sét (Thịnh Liệt) và những địa danh phối hợp làm thành những biểu tượng phong thủy, đồng thời cũng phản ánh thẩm mỹ về cảnh quan.

Về phần nhà nước quân chủ, để phục vụ các thiết chế nghi lễ triều chính, phía nam thành là nơi đặt các đàn tế như đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông và đàn Nam Giao. Những chốn này được đắp thành đàn và gò cao giữa nơi đương thời nhiều hồ ao, càng làm đậm thêm cảm thức trực quan về biểu tượng “sơn - hà”. Theo một nguyên tắc ấn định từ đời nhà Chu, lễ tế quan trọng nhất của các triều đại đặt ở một đàn tế phía nam của kinh thành, gọi là đàn Nam Giao. Nam Giao có nghĩa là khu đất ngoại thành phía nam, với trường hợp kinh đô Đại Việt, chính là khu vực cuối phố Huế ngày nay, giáp với ô Cầu Dền. Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết trên đất làng Hồng Mai, năm 1484 vua Lê Thánh Tông cho xây đài Quan Canh để ngự xem cày cấy và đàn Tiên Nông để tế Thần Nông. 

Đó là những dấu vết có tính quan phương nhất trên vùng đất nam thành. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn nhận xét do vùng đất này nằm ở giữa hai đường giao thông thủy bộ đều quan trọng là đường thiên lý và sông Nhị Hà nên có một vị trí quan trọng về phương diện phòng thủ phía đông nam kinh thành nhiều triều đại cho đến thời Pháp thuộc. 

Đường thiên lý chính là trục giữa đi qua vùng Mơ - Sét, tương ứng với trục phố Huế - Bạch Mai - Trương Định ngày nay, ra khỏi thành qua cửa ô Cầu Dền, tên của cây cầu bắc qua sông Kim Ngưu, cũng là hào nước tự nhiên của bức tường thành Đại La. Đường thiên lý tựa như một yết hầu giao thông của thành Thăng Long. 

Dòng nước và cây cầu

Con đường thiên lý sau khi ra khỏi thành là nơi các làng Hồng Mai, Quỳnh Lôi, Hoàng Mai, Tương Mai, Thịnh Liệt lần lượt bám theo trục đường, tựa một sống lưng trâu nổi giữa những vùng nước. 

Chức năng quan trọng của đường thiên lý là đặt các trạm nghỉ phục vụ việc chạy công văn của triều đình, kết nối kinh đô với các châu, trấn xa. Thời Lê đặt 54 trạm dịch trên đường này từ Thăng Long vào miền trong và trạm dịch ngoài thành đầu tiên đặt tại khu vực Hoàng Mai.

Nhà Nguyễn tiếp nối hệ thống này vào thời Minh Mạng sau khi định ra một tỉnh thành Hà Nội thay thế đất Thăng Long cũ, đặt tên trạm trong thành là Hà Trung, ghép tên Hà Nội và thôn Yên Trung huyện Thọ Xương, và trạm tại Hoàng Mai được ghép tên với Hà Nội thành trạm Hà Mai, cách trạm Hà Trung 6 dặm. 

Một nhà vườn trong làng Hoàng Mai ngày nay. Ảnh: NTQ


Theo văn bia “Dịch Lư kiều bi ký”do trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính lập năm 1646 đặt tại đền Lừ (Lư Giang từ) nằm cạnh sông Kim Ngưu ngày nay, cho biết vào thế kỷ XVII trạm dịch phía nam kinh thành có tên Dịch Lư, bên cây cầu cùng tên bắc qua sông Lừ (Lư Giang). Năm 1644, người làng Hoàng Mai, lúc này thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, dựng một cây cầu mới thay cho cầu cũ.

Trong khi đó, Đại Nam nhất thống chí gọi tên cây cầu trên con đường này là Thịnh Liệt (tên nôm là Sét), nhưng “bắc qua sông Kim Ngưu”. Khoảng cách từ đền Lừ đến cầu Sét là hơn hai cây số. Ta có thể thấy sự lẫn lộn ở đây khi vốn dĩ chỉ có một đường thiên lý ở mặt nam kinh thành thời Lê nên khó lòng cây cầu và trạm dịch lại cách đó xa như vậy. Tuy nhiên ta sẽ thấy hợp lý khi đền Lừ theo địa giới thời Lê vẫn nằm trong đất làng Hoàng Mai và Lư Giang xét cho cùng là một cái tên được dùng để chỉ chung một hệ thống sông phía nam kinh thành này.

Giải thích cho sự chồng lấn các tên gọi, có thể tìm gợi ý từ bài ca dao cuối thế kỷ XIX mô tả cảnh sắc nơi 3 con sông Kim

Ngưu, Sét và Lừ gặp nhau: 
Vang lừng chợ Sét một bên
Qua cầu lại thấy bên trên có chùa
Kẻ đi người lại như đua
Kẻ đi ghé nón, người vô cúi đầu
Trông sang làng Tám càng màu
Thiên thanh con lục, địa đầu tam giang

Cây cầu Sét nằm trên địa phận Giáp Lục, tức làng Sét của tổng Thịnh Liệt, kề cận chùa Sét (Đại Bi tự), đều do một bà chúa họ Lê cho làm. Bia đá lập năm 1635 trong chùa cho biết một số bà phi thời Lê Trịnh đã cho xây chùa, chợ và một cây cầu gạch có mái ngói bên bến sông, khơi dòng chảy thông với sông Kim Ngưu làm thành con đường thủy từ phía nam vào kinh thành. 

Ngày nay, 3 con sông được nói đến ở vùng Mơ - Sét gồm sông Lừ phía tây, sông Sét ở giữa và sông Kim Ngưu phía đông, đều là những con sông được nạo vét và nắn chỉnh các dòng chảy từ con hào cũ của thành Đại La trước đây xuống phía nam. Ta nhận diện được con đường thiên lý cũ chỉ đi qua duy nhất đoạn sông Sét ở đoạn đường Trương Định trên cây cầu Sét. Sông Sét thông với sông Lừ nhờ một đoạn sông cắt qua đường cái quan thời Nguyễn và thời Pháp thuộc, bắc qua bằng một cây cầu gọi là Cống Vọng, nay là đường Giải Phóng. Sông Sét hội nước với sông Kim Ngưu ở khu vực hồ điều hòa Yên Sở. Trong khi đó, dòng chảy từ con hào thành cũ đã cống hóa, không còn hiện diện trên bản đồ.

Cách gọi tên các dòng sông trong các văn bản quá khứ không được nhất quán, song xét lộ trình con đường thiên lý cổ, trên toàn cảnh, có thể nói các cây cầu Dịch Lư và Thịnh Liệt (Sét) đều là một và khúc sông hiện đại là một đoạn tụ nước của 3 dòng sông. 

Tên của những dòng sông và cây cầu có vẻ làm cho con đường thiên lý phức tạp, song chúng cũng gợi ý về một sự biến ảo trong hình dung của người xưa về phong cảnh. Trên con đường thiên lý đi qua phía nam Thăng Long, những chỉ dấu văn hóa chính là thứ giúp hậu thế nhận diện lịch sử của vùng đất. 

Tháp Diệu Quang chùa Liên Phái bên ruộng nước đầu thế kỷ XX. Ảnh tư liệu


Thời Lê, một vương tử là Trịnh Thập (hay Trịnh Hạp), em chúa Trịnh Cương và là con rể vua Lê Hy Tông, đi xuất gia đã xây ngôi chùa Liên Hoa năm 1726 trên đất Hồng Mai, lập ra thiền phái Liên Tông rồi thành tên chùa. Do kiêng húy tên các vua Thiệu Trị và Tự Đức nhà Nguyễn, Hồng Mai và Liên Tông đổi ra Bạch Mai và Liên Phái. Ngôi chùa nổi bật trong khung cảnh đồng ruộng và ao hồ với ngọn tháp Diệu Quang cao 10 tầng, có dạng một tòa Cửu phẩm Liên hoa hình lục lăng độc đáo với những tầng mái thuôn dần về đỉnh.

Thời Nguyễn, nhằm chấn hưng sĩ khí đất Bắc, một văn chỉ của huyện Thọ Xương (khu vực phía đông và nam của nội thành) mang tên “Thọ Xương tiên hiền từ vũ” được các văn thân dựng lên vào năm 1836 ở làng Bạch Mai, ngay gần chùa Liên Phái. Ngày nay Văn Chỉ là một di tích nhỏ bé nằm sâu trong ngõ 222 Bạch Mai, đã mờ nhạt sự hiện diện trong đời sống hiện đại, còn chùa Liên Phái vẫn được nhiều Phật tử tìm đến. Người đến Bạch Mai quên mất Văn Chỉ Thọ Xương là nơi chỉ đứng sau Văn Miếu, mà chỉ truyền tụng chùa Liên Phái linh thiêng về việc hóa giải trùng tang.

Trước khi tạm kết phần thứ nhất của hành trình theo con đường thiên lý xa xưa qua vùng Mơ - Sét, có thể nói không một thành thị xa hoa nào lại tách rời vùng vành đai cung cấp nhân tài vật lực cho nó. Những dòng nước của vùng phía nam Thăng Long - Hà Nội đã nuôi sống kinh kỳ cũng như đón nhận những gì trôi dạt từ phố lớn qua nhiều thăng trầm lịch sử.

Nguyễn Trương Quý

________________

(Xem tiếp kỳ sau)

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.