Nhân tai, lý do chính gây ngập lụt

 17:05 | Thứ bảy, 16/08/2014  0

Ngập lụt tại TP.HCM sẽ ngày càng trầm trọng do biến đổi khí hậu là nội dung được cảnh báo từ hơn mười năm trước. Trung tâm Quản lý môi trường quốc tế (ICEM) thậm chí đã dự báo đến năm 2050 TP.HCM ngập 61% diện tích toàn thành phố. Ngân hàng Thế giới cũng nhắc nhở TP.HCM là một trong mười thành phố chịu nhiều rủi ro nhất trước tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. Trong tương lai, rủi ro của thành phố có thể còn trầm trọng hơn khi hệ quả của biến đổi khí hậu, nước biến dâng cao và lượng mưa gia tăng bất thường.

Theo nhà thiết kế và quy hoạch đô thị Nguyễn Đỗ Dũng, nguyên nhân chính của tình trạng ngập lụt hiện nay tại TP.HCM không hẳn tại thiên tai. “Chiến lược phát triển đô thị thiếu khoa học, hệ thống thoát nước yếu kém và phương pháp tiếp cận nặng về giải pháp công trình đã làm trầm trọng hơn vấn đề”, ông Dũng nhận xét.

Ông Dũng đưa ra dẫn chứng: mặc dù 75% các điểm ngập tại TP.HCM nằm ở vị trí cao hơn ít nhất 1m so với mực nước cao nhất ghi nhận được tại trạm Phú An trên sông Sài Gòn, nhưng quy hoạch thuỷ lợi đề xuất xây dựng một hệ thống đê bao dọc theo bờ Tây sông Sài Gòn (với tổng chi phí lên tới 11.000 tỉ đồng) nhằm “triệt tiêu” ảnh hưởng của thuỷ triều đối với tình trạng ngập lụt của thành phố vẫn được phê duyệt! Trong khi đó, khả năng chứa nước tại chỗ của sông, hồ, kênh, rạch (giúp chống ngập một cách tự nhiên) trên địa bàn thành phố giảm đến 10 lần và diện tích bêtông hoá đô thị tăng 2,5 lần trong vòng 10 năm lại không được lưu ý đúng mức trong việc chống ngập.

Dân số càng tăng, nước lên càng cao

Theo ông Dũng, sinh thái học cảnh quan là một ngành khoa học nghiên cứu mới ra đời 20 năm nay. Ngành khoa học này cho rằng tất cả những cấu trúc, hình thái, phân bổ của vật thể trên mặt đất đều có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh và nước không nằm ngoài quy luật đó.

Nằm ở vùng giáp ranh của hai khu vực: phần cuối của Đông Nam bộ (phần đất cao) và cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long (phần đất trũng), do vậy địa hình của Sài Gòn thấp dần về phía biển. Trong nội ô xưa, khu vực Tân Bình, quận 3 là gò cao, khu vực quận 1 là vùng trũng. Trước đây, các khu vực thuộc quận Thủ Đức (Hiệp Bình Chánh, Thủ Thiêm…) và khu vực nam Sài Gòn (quận 7, Nhà Bè) là những nơi được đánh giá là khu vực ngập lụt, do đó ít dân cư sinh sống. Sau 1975, đô thị hoá mới diễn ra ở đây và dân số tại những nơi này không ngừng tăng.

Bằng số liệu thống kê trong 20 năm (1990 - 2010), ông Dũng cho thấy có sự tỷ lệ thuận giữa gia tăng dân số với số giờ mực nước vượt mức báo động (đo tại trạm Phú An).

Theo đó, đột biến bắt đầu từ năm 1998, khi dân số TP.HCM gần 5 triệu người, mực nước vượt các mức báo động (báo động 1 là 1,25m, báo động 2 là 1,4m, báo động 3 là 1,5m - PV) tại trạm Phú An khoảng 100 giờ. Đến năm 2010, khi dân số tăng đến 7,5 triệu người, mực nước vượt mức báo động gần 300 giờ.

Đô thị càng rộng, ngập lụt càng nhiều

Đô thị hoá cũng làm hiện tượng tuần hoàn của nước bị thay đổi.

Đối với không khí, bêtông hoá làm nhiệt độ tăng cao, khiến các thành phố đều nóng hơn các vùng xung quanh từ 2-3 độ C. Khi bầu khí quyển nóng hơn khiến lượng mưa ở thành phố cao hơn. Đối với lòng đất, còn nhiều tác hại hơn, tỷ lệ sử dụng nước ngầm rất nhiều, khiến lòng đất rỗng dần, gây ra hiện tượng lún sụt. Bêtông hoá khiến nước mưa không thể thẩm thấu để bù đắp lượng nước ngầm bị thiếu hụt (trong khi ở mặt đất tự nhiên, nước mưa cung cấp từ 40 – 50% cho nước ngầm). Hiện tượng sụt lún ở TP.HCM hiện nay 2 – 20cm/năm, tuỳ địa điểm. Hiện tượng lún sụt còn có một nguy cơ khác là lún không đều, các khu vực trung tâm lún nhiều hơn vì có nhiều nhà cao tầng.

Hệ sinh thái thiên nhiên cũng giống như con người, chỉ có khả năng chịu đựng nhất định. Nếu tác động vượt giới hạn thì khả năng chịu đựng sẽ kém đi. Vì vậy, các nhà làm quy hoạch phải biết được khả năng chịu đựng của thiên nhiên là bao nhiêu để quy hoạch thành phố nằm dưới khả năng chịu đựng đó.

Như nhiều thành phố khác hiện nay, hệ thống thoát nước ở TP.HCM phần lớn bằng hệ thống cống bêtông – thay thế kênh rạch tự nhiên trước kia. Mục đích của hệ thống thoát nước bằng bêtông, theo mong muốn truyền thống của người thiết kế, là thoát nước càng nhanh càng tốt. Hệ quả, do tốc độ chảy nhanh nên lượng nước dồn về hạ nguồn lên đến đỉnh nhanh hơn, gây ngập lụt nhiều hơn cho hạ lưu. Đồng thời, nó cung cấp một lượng nước thải khổng lồ vào hệ thống sông ngòi và biển, tác động mạnh và xấu vào hệ sinh thái.

Từ những minh chứng nêu trên, ông Dũng đúc kết: đô thị hoá làm gia tăng tốc độ và lưu lượng nước chảy bề mặt; đây là nguyên nhân chính gây ra ngập lụt.

Những ứng xử thiếu tôn trọng thiên nhiên

Ở thượng nguồn sông Sài Gòn là hồ Dầu Tiếng, được đào và chính thức đưa vào sử dụng năm 1989. Vì có hồ Dầu Tiếng, toàn bộ nước lưu vực sông Sài Gòn ở phía trên hồ Dầu Tiếng được kiểm soát. Tuy nhiên, điều lo ngại là lưu vực sông Sài Gòn từ phía nam hồ Dầu Tiếng trở xuống, trong đó có TP.HCM.

Sau 20 năm phát triển đô thị, với hình thù hiện tại, đô thị Sài Gòn đã ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái.

Bản đồ so sánh cho thấy diện tích bị ngập lụt ở TP.HCM tăng lên theo sự gia tăng của diện tích đô thị hoá tính trên tổng diện tích lưu vực sông Sài Gòn.

Hai mươi năm qua, Sài Gòn có nhiều biến động về dân số, phát triển đô thị và nước. Ông Dũng cho rằng, hệ sinh thái thiên nhiên cũng giống như con người, chỉ có khả năng chịu đựng nhất định. Nếu tác động vượt giới hạn thì khả năng chịu đựng sẽ kém đi. Vì vậy, các nhà làm quy hoạch phải biết được khả năng chịu đựng của thiên nhiên là bao nhiêu để quy hoạch thành phố nằm dưới khả năng chịu đựng đó.

Nhiều thành phố trên thế giới đã gặp phải tai hoạ trong quá khứ khi tỷ lệ đô thị hoá ở một lưu vực sông vượt quá 10% tổng diện tích. Khi đó, khả năng thoát nước, giữ nước của hệ sinh thái tại lưu vực đó bị giảm một cách đáng kể.

Năm 1990, diện tích đô thị hoá của TP.HCM chưa đến 7.000 hécta. Năm 2010, diện tích này tăng thành gần 30.000 hécta (hơn 4 lần trong 20 năm), trong khi dân số chỉ tăng gấp đôi. Đặc biệt, từ năm 2005, tốc độ đô thị hoá đã ở mức 10%, đến năm 2010 lên đến 11,8%.

Một điểm đáng lo ngại khác: trong vòng 20 năm đó, đô thị lại phát triển về phía thượng nguồn lưu vực sông Sài Gòn. Về mặt thuỷ văn, đây là điều kiêng kỵ vì khi tác động vào thượng nguồn, yếu tố tác động xuống hạ lưu sẽ mạnh hơn rất nhiều, càng khiến việc ngập lụt nặng nề hơn.

Ông Nguyễn Đỗ Dũng là nhà thiết kế và quy hoạch đô thị. Ông tốt nghiệp cử nhân ngành đô thị học tại đại học Tổng hợp Calgary (Canada) và thạc sĩ ngành quy hoạch thành phố và vùng tại viện Công nghệ Georgia (Hoa Kỳ) bằng học bổng Fulbright của chính phủ Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống tại Singapore và là nhà quy hoạch, thiết kế cấp cao tại công ty tư vấn CPG (Singapore).

Nguyễn Đỗ Dũng quan tâm đặc biệt đến thuỷ học, bản đồ học và lịch sử môi trường. Các thực hành quy hoạch, thiết kế, nghiên cứu và các bài viết của ông hướng đến sự tương tác giữa các cộng đồng dân cư và nước, trị thuỷ và biến đổi khí hậu trong sự tiếp nối về lịch sử và truyền thống sinh hoạt đặc trưng của những cộng đồng đó. Ông đã tham gia nhiều dự án nghiên cứu và phát triển đô thị tại Việt Nam và trên thế giới. Nổi bật trong số đó là thiết kế khu đô thị thể nghiệm Kallang Riverside tại Singapore, quy hoạch cảnh quan hai bên bờ sông Châu Giang (Vân Nam, Trung Quốc), quy hoạch chiến lược đặc khu kinh tế Kyauk Phyu (Miến Điện), nghiên cứu về sự tương tác giữa đô thị và chế độ thuỷ văn sông Sài Gòn, đánh giá tác động của nước biển dâng cao tới ba hạt ven biển bang Georgia (Hoa Kỳ) - dự án vừa được giải thưởng của hội Quy hoạch Hoa Kỳ cho các đóng góp vào những vấn đề đương đại.

Doãn Khởi 

 

Bốn yếu tố liên quan đến mối tương tác giữa nước và đô thị

 

Số liệu thống kê trong 20 năm (1990 - 2010) cho thấy có sự tỷ lệ thuận giữa gia tăng dân số và số giờ mực nước tại trạm Phú An vượt mức báo động.

- Tỷ lệ diện tích đô thị hóa trên diện tích lưu vực sông. Với tỷ lệ ở mức gần 12% như TP.HCM hiện nay, chắc chắn hệ sinh thái sẽ giảm đáng kể khả năng thoát, giữ và thẩm thấu nước.

- Độ nén của đô thị (tập trung ở một khu vực hay dàn trải). Độ nén càng thấp, khả năng ứ nước càng cao. TP.HCM hiện nay có độ nén ngày càng giảm, các khu đô thị ngày càng toả ra nằm dọc các tuyến đường. Điều này góp phần ngăn cản nước thoát đi.

- Cạnh của đô thị (vùng giáp ranh): ở TP.HCM vùng giáp ranh phát triển tự phát, phi chính thức.

- Độ tập trung (tất cả sự phát triển của một đô thị tập trung ở khu vực trung tâm hay các đô thị phân tán khắp nơi): do mọc quá nhiều khu đô thị ở xung quanh lưu vực sông Sài Gòn (TP.HCM, Bình Dương) nên tỷ lệ diện tích đô thị hoá trên toàn lưu vực tăng cao. Điều này càng làm giảm sút khả năng thoát nước trên toàn lưu vực.

 

bài viết liên quan
TAGS
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.