Hà Nội bước vào chu kỳ quy hoạch mới: Từ kỳ tích đê sông Hồng đến chiến lược đô thị ba chiều

 15:18 | Thứ tư, 26/11/2025  0
Từ bản đồ địa hình năm 1905 đến hệ thống đê điều bảo vệ đô thị hơn một thế kỷ, Hà Nội đã tạo nên kỳ tích sinh tồn bên dòng sông Hồng. Bước sang giai đoạn triển khai Quy hoạch Thủ đô 2045–2065, thành phố đứng trước yêu cầu tái cấu trúc theo mô hình đô thị cân bằng đất – nước, khai thác triệt để không gian ngầm để giải bài toán lũ, trữ nước và mở rộng hạ tầng đô thị.

Tại Hội nghị công bố thành lập Ban Chỉ đạo triển khai, thực hiện Quy hoạch Thủ đô đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 vào ngày 18.11.2025, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Nguyễn Duy Ngọc chỉ đạo: “Khi xây dựng một quy hoạch lớn, tầm nhìn đến năm 2065 — và thậm chí xa hơn — thì những nội dung nào pháp luật phải điều chỉnh để theo kịp quy hoạch đều phải được xem xét. Ví dụ: khai thác không gian ngầm; phát triển kinh tế theo tầng cao – tầng thấp, tức là xác định rõ chiều cao và cấu trúc đô thị”[1].

Có thể thấy, Hà Nội đang bước vào một chu kỳ quy hoạch mới không chỉ là chuyện mở rộng không gian đô thị, mà là một cuộc định vị lại thành phố trong cả ba chiều: chiều ngang của lãnh thổ, chiều dọc của kiến trúc, và chiều sâu của cấu trúc ngầm.

Một góc Thành phố Hà Nội nhìn từ trên cao. Ảnh: Báo Tiền Phong


Kỳ tích đê sông Hồng cách đây 100 năm được lập từ Bản đồ độ cao Hà Nội 1905

Nhìn lại lịch sử, bản đồ Hà Nội được đo đạc theo kỹ thuật phương Tây từ năm 1885, đã có thông tin cao độ vì đến năm 1889, Hà Nội lập thiết kế thoát nước, chuẩn bị cho việc lấp hào, phá thành Hà Nội vào năm 1890 và san lấp hồ ao, vùng trũng ngập để xây dựng các ô phố bàn cờ kết nối từ thành Hà Nội ra tới sông Hồng, với phạm vi khoảng 5 km2.

Trong 20 năm tiếp theo (1885 – 1905), sở Địa dư Đông Dương mở rộng phạm vi khảo sát địa hình địa mạo, thủy văn thủy hệ… hạ lưu sông Hồng và Thái Bình, với quy mô hơn 50.000 km2, trong đó cao độ, đường đồng mức rõ ràng, làm cơ sở cho thiết kế hệ thống thủy lợi đê điều lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình. Để bảo vệ nội thành Hà Nội, hành lang thoát lũ sông Hồng đã được lập dựa trên địa hình trũng thấp lưu vực các sông Tích, Đáy, Nhuệ, điều tiết đóng mở nước tại đập Đáy vốn được hoàn thành vào năm 1937. Đến năm năm 1971 đã mở cửa xã lũ cứu nguy cho nội thành.

Bản đồ địa hình do Địa chính Đông Dương lập 1905 và lũ lớn trên sông Hồng 1929, 1971


Thành phố Hà Nội năm 1905 rộng 5 km2 nằm sát sông Hồng, có độ cao > +10 so với mặt biển. Sau 120 năm (1905 – 2025) đô thị trung tâm đã rộng hơn 80 lần (160 km2 so với 5 km2), nằm trên vùng đất cao từ +5m đến +10m. Từ sông Tô Lịch tới sông Nhuệ cao + 4m đến +5m.

Phía Nam và Tây Nam đô thị trung tâm địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam từ +5m, thấp dần còn +1, +2m; Trũng thấp nhất thuộc Ứng Hoà (0 m), ngang với mực nước biển. Đôi bờ sông Hồng từ Sơn Tây qua Hoài Đức cao > +10 m. Bờ sông qua nội thành từ trung tâm tới Thường Tín, Phú Xuyên cao +4m đến +5m, trong khi khu vực trong đê lại thấp hơn, chỉ từ +2m đến +3m.

Với cao độ đê sông Hồng (+13,5) cùng với 2 bờ sông cao từ > +10m thấp dần tới +5m đảm bảo độ dốc dòng chảy từ Bắc Hà Nội xuống các tỉnh phía Nam Hà Nội để đổ ra biển, là hành lang thoát lũ khổng lồ: nơi mặt nước mênh mông cao hơn mặt biển từ +8m đến +13m. Khi lũ lớn dòng nước chảy cuồn cuộn trên đầu mặt đất trũng, nơi thấp hơn mặt nước 8-10 m, nhưng hàng chục triệu cư dân sinh sống trong hàng ngàn km2 hạ lưu, vẫn an toàn trong lũ lớn.

Con đê vĩ đại này đã lập nên kỳ tích phi thường tại Hà Nội, vốn được kích hoạt sớm hơn thời điểm khởi động kế hoạch “Phục hưng sông Hàn 1.0” tại Seoul (Hàn Quốc) gần 100 năm (1885 – 1983). Sau trận lũ lớn năm 1926, nước lên cao sát đường Trần Nhật Duật, đê Hà Nội được đắp cao dần, cùng thời điểm khi đê Afsluitdijk của Hà Lan được xây dựng vào năm 1927. Bởi vậy để thấy, đê sông Hồng Hà Nội đã tạo nên bao điều kỳ diệu trước cả kỳ tích sông Hàn và ngang với đê biển Hà Lan từ lâu rồi.

Những đô thị tạo nên điều kỳ diệu nhờ giải đúng bài toán cân bằng đất – nước

Nhiều người xa Hà Nội vẫn “…nhớ phố Quang Trung, đường Nguyễn Du/ Những đêm hoa sữa thơm nồng” (Nhớ về Hà Nội, Hoàng Hiệp), nhưng không mấy người biết từ năm 1924, Hà Nội đã khởi động kế hoạch xây dựng “Khu phố Mới cho người bản xứ” (Nouveaux quartiers indigènes) tại phía Nam thành phố với mục tiêu “hướng tới để trở thành, nếu không là đẹp nhất, thì chí ít cũng là một trong những khu vực ngoạn mục nhất”.

Các ngôi nhà kiến trúc tao nhã, lịch lãm nằm giữa thửa đất rộng có vườn cây chung quanh. Vườn nhà và cây xanh đường phố tạo thành “phố thâm nghiêm rợp bóng cây/ tiếng ve ru những trưa hè” (Hoàng Hiệp). Thành phố cho nạo vét sâu 3 mét các hồ đầm, và cho lấy đất đắp cao nền đường phố, nhà ở ven hồ. Chương trình đã tạo ra mặt hồ Thiền Quang trong sạch và các dãy phố sạch sẽ, sang trọng chung quanh.

Bản đồ các khu đô thị hiện hữu, đô thị theo Quy hoạch trên địa hình 1905; Hành lang thoát lũ sông Hồng và hành lang xanh, nêm xanh trong Quy hoạch chung 1259 (công bố năm 2011).

Những năm 1960 – 1986, các khu nhà ở tập thể Kim Liên, Giảng Võ, Thành Công, Ngọc Khánh mọc lên với nền đắp cao nhờ nạo vét sâu hồ đầm, ruộng trũng, tạo thành các hồ nước trong khu chung cư cũ: vừa tạo cảnh quan khu ở, vừa là hồ chứa nước điều hoà mỗi khi mưa lớn. Nguyên tắc tổng lượng đất đắp bằng đất đào đã tạo nên sự cân bằng bền vững, tiết kiệm chi phí vận chuyển từ xa đến và loại trừ việc phá huỷ môi trường để khai thác đất, cát san nền. Các dự án thực hiện từ 1936 đến 1986 có quy mô rơi vào 200-300 ha.

Hà Nội đang lập dự án Đô thị Olympics quy mô 16.000 ha, tức diện tích lớn bằng đô thị trung tâm Hà Nội hiện nay. Độ cao mặt đất hiện trạng của Dự án từ +2 đến +5m, nếu trung bình san nền 1,5m3/1m2 thì tổng khối lượng san nền là khoảng 240 triệu m3, lớn hơn nhiều lần lượng cát nền để làm hàng ngàn cây số đường cao tốc, vốn đang gặp khó do thiếu đất cát san nền [2], [3].

Khối tích này lớn gần gấp khoảng 48 lần khối tích nước Hồ Tây (240 triệu/5 triệu m3), nhiều hơn gấp 10 lần tổng khối tích nước ngập nội thành Hà Nội cuối năm 2008 (240 triệu/23 triệu m3). Thách thức thiếu đất nền và không gian trữ nước có thể hoá giải bằng bài toán: tổng khối lượng đào và đắp phải bằng nhau tại bất cứ quy mô dự án nào từ vài chục ha đến vài trăm ha. Đặc biệt phải cân bằng ngay từng đơn vị dự án, không thể tiến hành lấp phục vụ khai thác bất động sản trước trong khi không gian cho nước lại để sau.

Bởi lẽ, Hà Nội đã phải trả giá cho việc san lấp tràn lan hàng trăm ngàn ha đất trũng thấp để khai thác bất động sản mà quên đi trả lại không gian cho nước. Và cũng không thể tách rời nhiệm vụ cân bằng đất – nước với bảo vệ an toàn vùng trũng thấp này bên cạnh con sông Hồng có mức nước cao hơn +5 đến +8m, nhất là với khối lượng hàng chục tỷ m3 chảy qua khi có lũ lớn.

Khai thác các tầng sâu trong đô thị cần những tầm cao trí tuệ và công nghệ

Lợi thế cốt lõi của đô thị tại vùng trũng thấp này chính là “đô thị cân bằng đất – nước”. Đây là mô hình đô thị tân tiến đã thành công tại nhiều quốc gia, điển hình là Tân khu Hùng An, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Trong dịp Thủ tướng Phạm Minh Chính làm việc tại Trung Quốc (tháng 6.2023) đã tới thăm và rất ấn tượng với việc khai thác cân bằng đất – nước để phát triển hạ tầng và xanh hóa, ông cho rằng đây là mô hình mà Việt Nam cần tham khảo trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước[4].

Đô thị mới Nam Hà Nội không chỉ cân bằng đất – nước mà còn là hệ sinh thái tuần hoàn, tăng giá trị đô thị gấp nhiều lần, tạo sức hút cư dân đang cư trú ngoài đê đôi bờ sông Hồng hay ở trung tâm đô thị tới đây sinh sống, để lại những khoảng trống tiềm năng đô thị cũ hoặc giải phóng không gian thoát lũ sông Hồng.

Quá trình “dịch cư – giãn cư” một cách êm thuận sẽ nhanh chóng hình thành đô thị xanh toàn diện với hành lang Xanh thoát lũ sông Hồng, trung tâm đô thị cũ Xanh, Đô thị mới Xanh… hấp dẫn, thu hút lực lượng lao động chất lượng cao trong nước và toàn cầu, tạo ra động lực phát triển mới sáng tạo với năng suất cao để Hà Nội hoàn thành mục tiêu tăng trưởng mới.

Cầu ngầm qua Hồ Tây, Tứ Liên, Trần Hưng Đạo mang lại nhiều giá trị mới hơn chỉ làm cầu và đường nổi: vừa giải thoát ùn tắc giao thông kết hợp giải thoát úng ngập đô thị và có kết nối nhanh nhất với các tuyến đường sắt Lao Cai – Hà Nội Hải Phòng và sân bay Gia Bình.


Trung tâm Hà Nội cũ tương lai vẫn là đô thị nén tiềm năng, nên sẽ hấp dẫn nguồn lực đầu tư những công trình ngầm quy mô lớn. Các công trình giao thông ngầm sẽ tích hợp thương mại dịch vụ, nơi đỗ xe, đường dây đường ống và là những dòng sông ngầm khắc phục úng ngập tất cả các điểm trũng ngập hiện tại, cũng như những phát sinh của biến đổi khí hậu tương lai.

Mặt khác, công nghệ và kỹ nghệ phát triển đang góp phần hạ giá thành công trình ngầm tương đương với giá thành của công trình nổi, nhưng tích hợp đa chức năng, mang lại nhiều lợi ích và cung cấp nhiều dịch vụ đô thị, do vậy, có thể thu hồi vốn nhanh hơn những công trình nổi chỉ đơn năng là giao thông. Đây là hướng đi khả thi mà Hà Nội có thể hướng đến khi triển khai Quy hoạch Thủ đô đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065.

Tân khu Hùng An - mô hình tiêu biểu của đô thị cân bằng đất – nước

Tân khu Hùng An, tỉnh Hà Bắc, cách Bắc Kinh 100km. Diện tích rộng 1.770 km2, xây dựng trong 5 năm (2017 – 2022). Tính đến 2022, đã thu hút tổng vốn đầu tư ấn tượng lên đến 74,2 tỷ USD, phân bổ cho 240 dự án lớn. Chính phủ Trung Quốc dự kiến triển khai thêm 270 dự án trọng điểm khác trong năm nay, với tổng vốn đầu tư dự kiến đạt 96,7 tỷ USD. Đã có 1,3 triệu người đăng ký đến sinh sống, làm việc. Thu hút gần 4.000 công ty đã đăng ký hoạt động, trong đó hơn 80% là các doanh nghiệp khoa học và công nghệ chuyển đến từ thủ đô.

Tân khu Hùng An, Hà Bắc (Trung Quốc), mô hình tiêu biểu của đô thị cân bằng đất – nước.


Điều này không chỉ làm tăng tính cạnh tranh của khu vực mà còn biến Hùng An thành trung tâm công nghệ mới của Trung Quốc. Khu vực này cũng trở thành nơi đặt trụ sở của nhiều trường đại học, bệnh viện và cơ quan nhà nước vốn trước đây tọa lạc tại Bắc Kinh.

Mặc dù vốn là một vùng đất trũng thấp, sau trận ngập lụt năm 1963 đã bị cấm xây dựng công trình kiến cố, Tân khu Hùng An được Chính phủ Trung Quốc lựa chọn xây dựng “đô thị tương lai", định hướng trở thành khu vực phát triển dựa trên đổi mới và công nghệ, nhờ đó thích ứng các thách thức về cân bằng đất/nước. Quy hoạch và thiết kế thành phố tích hợp những yếu tố hàng đầu như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và điện toán đám mây, đưa Hùng An trở thành khu vực phát triển nổi bật trong kỷ nguyên số.

Theo quy hoạch tổng thể, đến năm 2035, Tân khu Hùng An sẽ phát triển thành một thành phố hiện đại, xanh, thông minh và đáng sống, tương tác hài hòa giữa con người và môi trường, đồng thời có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ.

Trần Huy Ánh (Uỷ viên thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội )

_____________

[1] https://hanoionline.vn/thanh-lap-ban-chi-dao-trien-khai-dong-bo-quy-hoach-thu-do-370934.htm

[2] https://vov.vn/xa-hoi/cao-toc-bac-nam-dang-thieu-bao-nhieu-trieu-m3-cat-dat-dap-nen-post1054378.vov

[3] https://www.vietnamplus.vn/tinh-toan-chi-tiet-khoi-luong-cat-can-cho-san-lap-du-an-giao-thong-trong-diem-post946887.vnp

[4] https://vnexpress.net/thu-tuong-tan-khu-hung-an-la-mo-hinh-viet-nam-can-tham-khao-4622953.html.

bài viết liên quan
để lại bình luận của bạn
có thể bạn quan tâm
Cùng chuyên mục
Xem nhiều nhất

Đọc tin nhanh

*Chỉ được phép sử dụng thông tin từ website này khi có chấp thuận bằng văn bản của Người Đô Thị.